Theo TS.Nguyễn Đình Bồng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học đất Việt Nam, ở nước ta, phát triển nông nghiệp giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn. Trong đó, tập trung đất đai luôn được coi là một công cụ hoặc điểm xuất phát cho phát triển nông thôn nhằm sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung, cần đầu tư khoa học - công nghệ (giống cây con, phân bón, bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, máy móc, thiết bị, chế biến, bảo quản nông sản, tiêu thụ hàng hóa). Sản xuất riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân không đáp ứng được yêu cầu này tất yếu có nhu cầu hợp tác sản xuất, kinh doanh dưới các hình thức thích hợp: Hợp tác sản xuất, kinh doanh (từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm), góp vốn với các doanh nghiệp nông nghiệp.
Tích tụ đất đai là sự mở rộng quy mô diện tích đất đai do hợp nhất nhiều thửa lại, đây được xem là tiền đề phát triển kinh tế hộ gia đình từ quá độ chuyển từ sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Quá trình này vận động theo cơ chế thị trường, thông qua các hình thức giao dịch dân sự (chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ), thừa kế, cho, tặng QSDĐ). Một bộ phận hộ gia đình nông dân có kinh nghiệm sản xuất, sử dụng đất hiệu quả, có thu nhập, có nguồn vốn để nhận chuyển QSDĐ, mở rộng quy mô sử dụng đất (tích tụ ruộng đất). Tuy vậy, đa số hộ gia đình nông dân thiếu vốn để thực hiện tích tụ ruộng đất, muốn sử dụng đất hiệu quả, họ phải chọn hình thức khác (cho thuê hoặc góp vốn bằng QSDĐ).
Tích tụ ruộng đất tăng hiệu quả sử dụng đất. ẢnhL MH |
Nhiều năm qua, chính sách đất đai đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được các Nghị quyết của Đại hội VI và các Nghị quyết của Bộ Chính trị khóa VI nhấn mạnh theo hướng coi trọng vị trí đặc biệt của nông nghiệp, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý trong các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, phát huy triệt để vai trò chủ động của hộ nông dân. Đặc biệt, Nghị quyết số 19-NQ/TW năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đã xác định: “Tiếp tục giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất và yên tâm đầu tư sản xuất. Đồng thời, mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng…”
Thể chế hóa chính sách của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp các năm 1980, 1992, 2013, hệ thống pháp luật về đất đai đã từng bước cụ thể hóa việc này. Đơn cử, về các quyền của người sử dụng đất, Luật Đất đai năm 1987 chỉ nêu nguyên tắc: “Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp trên đất được giao” (Điều 3); đến Luật Đất đai năm 2003 phát triển thành 9 quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (Điều 106). Về chế độ sử dụng đất nông nghiệp, Luật Đất đai năm 2013 quy định mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản suất nông nghiệp và hạn mức nhận chuyển QSDĐ của hộ gia đình, cá nhân đáp ứng yêu cầu tích tụ, tập trung đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhờ đó, việc tích tụ, tập trung đấtđai nông nghiệp, nông thôn đã dần phát triển.Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở hầu hết các vùng trong cả nước.Theo Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm ngày 1/7/2016, cả nước có 33.488 trang trại, tăng 13.460 trang trại so với năm 2011. Bình quân 1 trang trại sử dụng 5,6ha đất sản xuất nông, lâm, thủy sản. Diện tích đất sản xuất nông, lâm, thủy sản bình quân ở Đồng bằng sông Cửu Long là 8,8 ha/trang trại, Đông Nam Bộ: 7,6 ha/trang trại, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: 7,4 ha/trang trại, Tây Nguyên: 6,4ha/trang trại.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản hàng hóa. Ảnh:MH |
Về hợp tác xã (HTX), đến hết năm 2015, trong lĩnh vực nông nghiệp có 19 liên hiệp HTX nông nghiệp (trong đó, có 3 liên hiệp HTX trồng trọt, 1 liên hiệp HTX chăn nuôi, 1 liên hiệp HTX thủy lợi và nước sinh hoạt, 3 liên hiệp HTX nuôi và khai thác thủy sản, 11 liên hiệp HTX dịch vụ tổng hợp); có 10.902 HTX nông nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, thủy lợi, lâm nghiệp, diêm nghiệp và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp chiếm 55,5% tổng số HTX trong cả nước. Về sản xuất nông nghiệp theo mô hình cánh đồng lớn, tính đến thời điểm ngày 1/7/2016, cả nước có tổng số 2.262 cánh đồng lớn.
Theo TS.Nguyễn Đình Bồng, nhìn chung quy mô tập trung ruộng đất ở nước ta còn nhỏ, HTX, DN sản xuất nông nghiệp có số lượng khá nhiều nhưng quy mô sử dụng đất thấp. Các hình thức dồn điền, đổi thửa, đặc biệt xây dựng cánh đồng lớn với các mô hình liên doanh, liên kết khác nhau được áp dụng chủ yếu đối với đất sản xuất nông nghiệp, trồng cây hằng năm (lúa, ngô, mía) và trồng cây lâu năm, chăn nuôi gia súc quy mô nhỏ.
Nguyên nhân là do trong quá trình đổi mới chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách đất đai đã từng bước được đổi mới với chủ trương giao đất sản xuất ổn định lâu dài cho hộ gia đình, cá nhân và cấp Giấy chứng nhận. Trên cơ sở củng cố chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, từng bước mở rộng QSDĐ cho người sử dụng đất; xác định QSDĐ là hàng hóa được lưu thông trên thị trường bất động sản; khuyến khích tích tụ ruộng đất (dồn điền, đổi thửa, phát triển kinh tế trang trại, xây dựng cánh đồng lớn), xây dựng nông thôn mới đã được triển khai thực hiện với các bước đi thận trọng, thích hợp và đã phát huy tác dụng.
Cùng với đó là thị trường QSDĐ trong nông nghiệp, nông thôn là một thị trường tiềm năng, tuy vậy, thị trường ở nước ta chưa phát triển mới chỉ sơ cấp (Nhà nước giao đất cho hộ gia đình, cá nhân) đã hoạt động hiệu quả, nhưng thị trường QSDĐ thứ cấp (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng QSDĐ) còn “đóng băng”. Trong các quyền được pháp luật cho phép, người sử dụng đất mới thực hiện một số quyền, như chuyển đổi, thừa kế, thế chấp; các quyền khác, như quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, cho thuê lại và góp vốn bằng QSDĐ còn ít được sử dụng. Điều này,một mặt do các quy định về quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, cho thuê lại còn chặt chẽ; các quy định và hướng dẫn về góp vốn bằng QSDĐ chưa đủ rõ ràng để người dân an tâm góp vốn bằng QSDĐ với DN thuộc các thành phần kinh tế; mặt khác, tâm lý của người nông dân muốn giữ ruộng đất sản xuất, không muốn chuyển nhượng mặc dù không có nhu cầu sử dụng đất. Ví dụ: Thanh niên đi xuất khẩu lao động hoặc tìm công việc trong các khu kinh tế, khu công nghiệp; người lớn tuổi, ra thành phố làm các công việc dịch vụ lao động.
Bên cạnh đó, các chính sách khác như: Muốn tích tụ ruộng đất cần tăng quy mô diện tích đất canh tác/hộ. Trong điều kiện quỹ đất sản xuất nông nghiệp đã khai thác đến trần (khoảng 10 triệu ha) có thể làm là giảm số hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Năm 2015, nước ta có khoảng 9,3 triệu hộ nông thôn, với 8,5 triệu hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp, quy mô sản xuất 1,21ha đất sản xuất nông nghiệp/hộ. Muốn tăng quy mô tích tụ ruộng đất cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Hộ gia đình muốn tích tụ ruộng đất cần phải có vốn, nếu giá chuyển nhượng QSDĐ từ 100.000 VNĐ - 200.000 VNĐ/1m2 để có thêm 1ha, phải có 1 - 2 tỷ VNĐ. Điều này vượt quá khả năng của nông dân. Vì vậy, muốn thúc đẩy tích tụ ruộng đất, Nhà nước cần có quỹ phát triển đất và hỗ trợ nông dân vay vốn với cơ chế phù hợp.
Tác giả bài viết: Giang Trường
Nguồn tin: baotainguyenmoitruong.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã