Phương pháp nghiên cứu
Thu mẫu trùng quả dưa: Mẫu cá trắm cỏ nhiễm bệnh trùng quả dưa được đưa về phòng thí nghiệm, trùng quả dưa giai đoạn trùng trưởng thành (trophonts) được thu từ nhớt da của cá, và giữ ở nhiệt độ phòng trong 36 - 48 giờ, ấu trùng (theronts) nở ra sẽ được pha loãng để thu mẫu chứa dao động 5.000 - 7.500 theronts/ml.
Thu mẫu cá thí nghiệm: Các mẫu cá trắm cỏ sạch bệnh được thu gom từ các ao cá khỏe mạnh, kiểm tra kỹ không nhiễm trùng quả dưa và bất kỳ loài ký sinh trùng nào khác trước khi gây nhiễm. Cá được cho thích nghi với môi trường bể ương trong phòng thí nghiệm 48 giờ trước khi tiến hành thí nghiệm.
Phương pháp: Hóa chất được sử dụng gồm formalin đậm đặc (38%) và hỗn hợp PHA bao gồm 3 loại hóa chất có tính ôxy hóa gồm axit paracetic 15%, hydrogen peroxide (H2O2) 25% và axit acetic 25%. Pha chế thử nghiệm các công thức sau: Formalin 25 ppm (F25) kết hợp với hỗn hợp PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm (PHA1, PHA3, PHA5, PHA7 và PHA10).
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm in vitro (đối với ấu trùng)
Sử dụng đĩa nuôi cấy có 24 lỗ để chứa 20 - 30 µl dung dịch mẫu ấu trùng (200 - 250 ấu trùng). Sau đó, bổ sung các hỗn hợp hóa chất đã pha chế sẵn đủ 1 ml/lỗ và đạt các nồng độ cần thử nghiệm để tiến hành xử lý ấu trùng, trong đó có lỗ đối chứng không sử dụng hóa chất. Mỗi công thức điều trị được lặp lại 4 lần. Đĩa được giữ ở nhiệt độ 250C và quan sát hiệu quả xử lý dưới kính hiển vi sau các khoảng thời gian xử lý khác nhau: 0, 1, 12, 24 và 48 giờ. Các ấu trùng bị chết được xác định là những ấu trùng không còn khả năng di động và bị biến đổi về mặt cấu trúc. Ấu trùng trong các lỗ được đếm từ trái sang phải, từ trên xuống theo mô tả của Xu et al. (2002).
Thí nghiệm in vivo (đối với trùng trưởng thành)
Thí nghiệm được tiến hành trong 21 bể (cỡ 40x50x60 cm), mỗi bể thí nghiệm chứa 40 lít nước. Sử dụng thiết bị cung cấp nhiệt để duy trì nhiệt độ nước ở mức 25 + 0,20C trong suốt thời gian thí nghiệm. Mỗi bể được bố trí 30 cá trắm cỏ hương (cỡ 4 + 0,24 g/con). Các lô thí nghiệm, cá được gây nhiễm với 5 ml dung dịch nhớt chứa trùng quả dưa giai đoạn ấu trùng. Theo Ventura và Paperna (1985), trùng quả dưa mất khoảng 48 - 72 giờ để tìm, ký sinh lên da, mang cá và trở thành trùng trưởng thành, do vậy thử nghiệm sẽ được tiến hành sau 72 giờ gây nhiễm. Các lô cá được xử lý bằng hỗn hợp formalin 25 ppm và PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm. Thời gian mỗi lần ngâm kéo dài 24 giờ, sau đó toàn bộ nước được thay hoàn toàn, cá được ngâm nhắc lại sau mỗi 2 ngày và lặp lại 5 lần. Trong khi đó, đồng thời gây nhiễm và điều trị song song 1 lô cá gây nhiễm bằng formalin + green malachite để tiện so sánh hiệu quả của 2 thử nghiệm.
Ngoài ra, thí nghiệm có thêm các lô đối chứng 1 (ĐC1) là bể được gây nhiễm nhưng không điều trị và đối chứng 2 (ĐC2) là bể cá không gây nhiễm và không điều trị. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, điều kiện bể nuôi, chế độ cho ăn, chất lượng nước ở các lô được đảm bảo không có sự khác biệt và trong quá trình điều trị các bể đều được sục khí liên tục. Số lượng cá sống được ghi chép từng ngày, quá trình điều trị kết thúc sau 10 ngày, một nửa số cá ở các lô thí nghiệm và lô đối chứng được kiểm tra cường độ nhiễm và tỷ lệ nhiễm trung bình, số cá còn lại tiếp tục nuôi thêm 10 ngày và kiểm tra khả năng hồi phục của cá sau điều trị.
Kết quả thí nghiệm
Thử nghiệm in vitro: Kết quả điều trị bằng hỗn hợp formalin và PHA có tác dụng tốt trong quá trình xử lý ấu trùng, số lượng ấu trùng còn khả năng di chuyển và có hình thái bình thường giảm đi đáng kể theo thời gian. Tỷ lệ ấu trùng bị tiêu diệt không còn khả năng di chuyển và bị biến đổi về mặt cấu trúc cao nhất ở liệu trình điều trị F25 + PHA5-10, tỷ lệ chết 94 - 96,5% sau 48 giờ điều trị thử nghiệm.
Thử nghiệm in vivo: Được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là thời gian điều trị bằng các hỗn hợp hóa chất, giai đoạn 2 là giai đoạn theo dõi hồi phục và khả năng tự sinh miễn dịch chống lại trùng quả dưa của cá trắm cỏ. Kết quả cho thấy, hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm cho kết quả xử lý tốt nhất. Tỷ lệ sống của cá lây nhiễm cao, đạt 92,23%.
Như vậy, những trùng quả dưa còn sót lại ở lô đã được điều trị F25 + PHA10 trong vòng 10 ngày đầu ở giai đoạn 1 có thể hoặc không còn khả năng sinh sản do tác dụng của hỗn hợp điều trị hoặc bị tác động từ hệ thống miễn dịch của cơ thể dẫn đến chết và không tái nhiễm trên cá. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về miễn dịch của cá với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ vấn đề này.
Mặc dù, hiệu quả xử lý trùng quả dưa của formalin 25 ppm + PHA10 ppm vẫn chưa triệt để so với hỗn hợp formalin và green malachite trong 10 ngày điều trị nhưng kết quả điều trị bước đầu đã hạn chế rất lớn tỷ lệ chết của cá, giảm cường độ nhiễm tới mức thấp, tạo điều kiện và thời gian để cá có những đáp ứng miễn dịch chống lại mầm bệnh và giúp cá hồi phục hoàn toàn sau 20 ngày.
>> Nghiên cứu chưa được thử nghiệm ở các mô hình nuôi khác nhau, tuy nhiên trong thời điểm này có thể sử dụng hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm để điều trị bệnh trùng quả dưa thay thế cho green malachite ít nhất là trong các bể ương nuôi giống thủy sản, bể cá cảnh. |
Nguồn: Tạp Chí Thủy sản Việt Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã