Học tập đạo đức HCM

Cần sớm hình thành và phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá

Thứ ba - 06/08/2013 04:22
Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy, hải sản khai thác từ biển đưa vào chế biến xuất khẩu chỉ đạt khoảng 40 - 50% tổng sản lượng, thấp hơn nhiều so với tiềm năng khai thác.

Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục Thủy sản, Nguyễn Ngọc Oai nhấn mạnh, một trong những giải pháp mà ngành đang chú trọng đến là t ăng cường công tác dịch vụ hậu cần sẽ giúp ngư dân giảm chi phí sản xuất và tăng chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu.

* Chưa tương xứng với tiềm năng 

Theo Tổng cục Thủy sản, hàng năm, sản lượng khai thác từ biển của cả nước đạt khoảng 2,5 triệu tấn. Riêng 6 tháng đầu năm 2013, sản lượng khai thác biển của cả nước đạt 1, 3 triệu tấn , tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2012 . Tuy nhiên, sản lượng thủy sản đưa vào chế biến chỉ đạt khoảng 40 - 50% tổng sản lượng khai thác. 

Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản cho biết, nguyên nhân chính là do hầu hết tàu thuyền khai thác xa bờ đều bảo quản sản phẩm sau thu hoạch bằng phương pháp truyền thống là sử dụng đá xay với thời gian ngắn, còn lại chỉ một số ít tàu câu mực sử dụng phương thức phơi khô và một số ít tàu lưới vây cá cơm sử dụng muối để bảo quản cá theo đơn đặt hàng của các chủ nậu, vựa. 

Ông Võ Thiên Lăng, Chủ tịch Hội Nghề cá Khánh Hòa cho rằng, hiện nay, tồn tại lớn nhất trong khai thác xa bờ là công nghệ bảo quản sau thu hoạch trên tàu vỏ gỗ của ngư dân quá thô sơ. Tuy đã có nhiều nghiên cứu cải tiến cách bảo quản nhưng đến nay vẫn chưa mang lại kết quả khả thi do không thể thay đổi kết cấu các hầm chứa trên tàu vỏ gỗ. 

Một chủ tàu cá ở thành phố Nha Trang, ông Nguyễn Văn Lương cho biết, từ trước đến nay, ngư dân thường bảo quản hải sản khai thác theo cách truyền thống là ướp nước đá. Do nhiệt độ, hầm bảo quản không đảm bảo kỹ thuật nên chất lượng sản phẩm sau khai thác giảm sút. Hơn nữa, do thiếu kinh phí nên tàu chúng tôi chưa thể trang bị hầm bảo quản. Các chuyến biển thường kéo dài hơn 20 ngày, khi gặp thời tiết xấu, chất lượng cá càng bị xuống cấp trầm trọng, hơn 60% lượng cá khi đưa vào bờ bị thương lái chê chất lượng kém. Cá không đạt tiêu chuẩn nên việc tiêu thụ cũng khó khăn, giá bán thấp, ông Lương nhấn mạnh. 

Theo Kết quả điều tra của Viện Khoa học và Công nghệ Khai thác thuỷ sản (Trường Đại học Nha Trang) , trung bình có 11,7% chủ tàu có nhu cầu áp dụng công nghệ bảo quản sản phẩm; 20,4% chủ tàu mong muốn cải tiến hầm bảo quản hiện đại. Và h ầu hết các chủ tàu này đều mong muốn được vay vốn ưu đãi của N hà nước vì họ không đủ khả năng đầu tư. 

Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có nhiều chủ tàu không có nhu cầu cải tiến hầm bảo quản. Bởi, họ cho rằng chất lượng sản phẩm tăng lên, đồng nghĩa với tăng chi phí trong khi giá sản phẩm không tăng. Thậm chí sẽ còn rơi vào tình trạng được mùa, rớt giá và đó là một trong những nguyên nhân không khuyến khích đầu tư. 

* Hình thành và phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá 

Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục Thủy sản – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Ngọc Oai cho rằng, một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả sản phẩm sau thu hoạch là việc hình thành và phát triển công tác dịch vụ hậu cần nghề cá. Theo ông Oai, đẩy mạnh công tác dịch vụ hậu cần giúp ngư dân giảm được chi phí sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, tăng thời gian đánh bắt trên biển cũng như góp phần giữ vững an ninh biển đảo. 
Tuy nhiên, ông Võ Khắc Én, Trưởng phòng Quản lý Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản Khánh Hòa cho biết, địa phương này từng thất bại về mô hình tàu dịch vụ hậu cần. Theo ông Én, mặc dù mô hình tàu mẹ - con hiệu quả nhưng đòi hỏi ngư dân phải có nguồn vốn lớn mới đáp ứng được nhu cầu trang bị tàu, thu mua, trao đổi hải sản. Trong khi đó, hiện nay Nhà nước vẫn chưa có chính sách hỗ trợ riêng đối với các chủ tàu làm dịch vụ hậu cần. 

Đồng tình với ý kiến trên, bà Mai Kim Thi, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Bình Định cũng cho biết, việc xây dựng các tổ đội sản xuất trên biển hiện nay được tổ chức thực hiện theo nội dung hướng dẫn trong cuốn sổ tay xây dựng tổ đội hợp tác của Tổng cục Thủy sản chứ chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về vấn đề này. Ngư dân tham gia trên tinh thần tự nguyện, hoàn toàn không có ràng buộc về tính pháp lý nên cũng rất dễ rút bỏ khỏi tổ đội nếu không có niềm tin hoặc lợi ích không được bảo đảm. 

 Theo ông Trần Cao Mưu, Hội nghề cá Việt Nam, khó khăn lớn nhất của ngư dân trong việc đầu tư hệ thống bảo quản sản phẩm thủy sản sau khai thác chính là vốn. Để hỗ trợ ngư dân đầu tư hệ thống bảo quản sản phẩm trên tàu cá nhằm giảm tổn thất sau khai thác, Thủ tướng đã ra Quyết định 63 và Quyết định 65 về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản .Theo đó, ngư dân sẽ được tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi để trang bị hệ thống bảo quản thủy sản sau thu hoạch, khai thác. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn khi thực hiện chủ trương này, nhất là việc thế chấp để vay vốn từ ngân hàng.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản sau khai thác, tránh lãng phí tài nguyên, đảm bảo hiệu quả của mỗi chuyến biển, tăng lợi nhuận cho ngư dân, ngoài các yếu tố về dự báo ngư trường, ứng dụng trang thiết bị, kỹ thuật khai thác hiện đại thì việc bảo quản tốt sản phẩm thủy sản sau khai thác, giảm thời gian bảo quản, nhất là các tàu thuyền khai thác xa bờ... rất quan trọng. Cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản – Tổng cục Thủy sản Nguyễn Hồng Đức cho biết như vậy. 

Trong thời gian tới, Tổng cục Thủy sản cũng sẽ tiến hành quy hoạch khai thác thủy sản xa bờ ; xây dựng mạng lưới hệ thống thông tin về giá sản phẩm cho các mặt hàng thủy sản tại các cảng cá, bến cá và chợ đầu mối; t hực hiện mô hình sản xuất tàu mẹ - tàu con cho đội tàu khai thác xa bờ . 

Một số ý kiến của các địa phương cho rằng, Tổng cục Thủy sản cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu để so sánh đối chiếu và xây dựng chính sách cho đội tàu khai thác xa bờ; triển khai thực hiện các giải pháp đã đề xuất trên một số tàu, nhóm tàu, địa phương điển hình trước khi áp dụng đồng bộ trên quy mô rộng . Đồng thời xây dựng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng sản phẩm sau khai thác cho từng đối tượng, nhóm sản phẩm theo tiêu chuẩn thị trường của các quốc gia xuất khẩu. 

Bên cạnh đó, việc tăng cường các biện pháp quản lý giá theo chất lượng sản phẩm có thể là giải pháp để khuyến khích ngư dân tự đầu tư nhằm cải thiện thiết bị, quy trình và công nghệ bảo quản sản phẩm trên tàu khai thác xa bờ… ./.

Theo Vietfish.org

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Văn bản ban hành

Công văn số 6748/UBND-NL5

Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024

Văn bản số 4414/UBND-NL5

Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới

Văn bản số 4305/UBND-NL5

Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố

Quyết định số 15/2024/QĐ-UBND

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh

Công văn số 3608/UBND-NL5

Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã

Hát về nông thôn mới
MÃ QR CODE ZALO-BỘ NỘI VỤ Bộ nông nghiệp Cổng thông tin Đảng bộ hà tĩnh Công báo tỉnh Điều hành tỉnh Dự thảo văn bản văn bản Nhật ký truyền thanh
Thăm dò ý kiến

Theo bạn thực hiện Chương trình OCOP nên phát triển theo hướng nào:

Thống kê
  • Đang truy cập250
  • Hôm nay47,044
  • Tháng hiện tại716,526
  • Tổng lượt truy cập90,779,919
®VĂN PHÒNG ĐIỀU PHỐI CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Trưởng ban biên tập:  Nguyễn Văn Việt - Chánh Văn phòng 
Phó trưởng ban biên tâp: Ngô Ðình Long - Phó Chánh Văn phòng
Địa chỉ: 148 - Đường Trần Phú - Thành Phố Hà Tĩnh
Điện thoại: 02393.892.689;  Email: nongthonmoitinhhatinh@gmail.com
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây