Những chính sách nào đã được triển khai dành cho người nuôi thủy sản nói chung và người nuôi tôm nói riêng, thưa ông?
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong đó, nổi bật là Quyết định 142/2009/QĐ-TTg 13/2/2009 về cơ chế chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh; Quyết định 315/QĐ-TTg 1/3/2011 thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2013, đã thí điểm đối với tôm và cá tra tại một số địa phương ĐBSCL; Nghị định 41/2010/NĐ-CP 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Quyết định 224/1999/QĐ-TTg 8/12/1999 phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 - 2010; Quyết định 63/2010/QĐ-TTg 15/10/2010 về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Cùng đó, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản 418/TB-VPCP 21/12/2012 thông báo ý kiến Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu bổ sung đối tượng là các doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ chức, cá nhân nuôi và chế biến, xuất khẩu tôm vào đối tượng áp dụng theo Công văn 1149/TTg-KTN ngày 8/8/2012 giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện giãn nợ tối đa 24 tháng và hạ lãi suất với khoản vốn đã vay; tiếp tục cho vay mới với lãi suất thị trường thấp nhất (11%). Tiếp đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có công văn 210/NHNN-TD 9/1/2013 chỉ đạo Agribank, Vietinbank, Vietcombank, Ngân hàng Phát triển Nhà ĐBSCL, bổ sung tôm vào danh mục các mặt hàng áp dụng như đối với cá tra. Mới đây nhất là Thông tư 26 về giống thủy sản, Đề án tái cơ cấu ngành thủy sản (22/11/2013) đã được ban hành. Bên cạnh đó, còn rất nhiều chính sách về vốn, đầu tư, bảo hiểm… được thực thi.
Các chính sách này đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất ngành tôm.
Bên cạnh hiệu quả, trong quá trình thực thi, những chính sách này cũng bộc lộ nhiều bất cập. Ý kiến của ông về vấn đề này thế nào?
Người nuôi tôm đã được hưởng nhiều chính sách ưu đãi nhưng hiệu quả thực sự của các chính sách này khi đi vào thực tiễn sản xuất cũng đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế.
Về đầu tư hạ tầng: Do sự phát triển nóng của ngành thủy sản, trong đó có tôm, diện tích tôm nuôi ngày được mở rộng hơn, vùng nuôi và các cơ sở sản xuất hình thành nhiều, nên việc đầu tư về hạ tầng này chưa theo kịp; đầu tư còn dàn trải, nhiều công trình chưa đưa vào sử dụng đúng tiến độ.
Về dịch bệnh, thiên tai: Những chủ trương, ưu đãi còn triển khai chậm; việc hỗ trợ người nuôi chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa giúp họ tái đầu tư sản xuất ngay sau khi bị dịch bệnh.
Về giống: Kinh phí cho công nghệ gia hóa và sản xuất giống chất lượng còn hạn chế, vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn tôm giống, kéo theo đó là khó khăn cho vấn đề quản lý dịch bệnh, chất lượng. Khả năng áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến chủ yếu chỉ thực hiện ở các dự án lớn, các doanh nghiệp; còn hầu hết người dân học nhau làm theo kinh nghiệm, không tuân thủ các quy định kỹ thuật. Đa số người dân vùng chuyển đổi là nông dân nghèo, thiếu vốn sản xuất, vốn vay không đủ cho đầu tư đào đắp ao nuôi, sắm thiết bị, con giống, thức ăn, nên việc áp dụng công nghệ nuôi không đồng bộ, khả năng rủi ro cao. Trong nhiều năm nay, phát triển nuôi TTCT dựa vào công nghệ nuôi của Trung Quốc, phụ thuộc chuyên gia hoặc dân nuôi phỏng theo công nghệ nuôi tôm sú, tự điều chỉnh trong quá trình sản xuất.
Người nuôi tôm vẫn mong hỗ trợ từ nhiều phía - Ảnh: Huy Hùng
Về chính sách tín dụng: Lãi suất cho vay còn cao, tài sản thế chấp tính trên giá thành cơ sở nuôi thấp, người dân được tiếp cận nguồn vay lãi suất thấp còn rất hạn chế. Cùng đó là sự suy thoái kinh tế khiến các dự án đầu tư cho thủy sản cũng hạn chế kinh phí.
Về quy hoạch: Chưa theo kịp sự phát triển nóng và nhỏ lẻ của người nuôi tôm, quy hoạch còn lỏng lẻo và chưa sát thực tiễn. Quy hoạch chậm, đi sau thực tiễn sản xuất: việc xây dựng quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản, quy hoạch chi tiết các vùng nuôi trồng thủy sản, các vùng nuôi thủy sản tập trung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Tính khả thi một số quy hoạch chưa cao. Quy hoạch các nhóm sản phẩm chủ lực mới đang triển khai xây dựng; Quy hoạch đi sau sự phát triển nên không phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô đối với sản xuất.
Về bảo hiểm: Mức độ và giá trị còn thấp, thủ tục còn nhiều vướng mắc và chưa đáp ứng được nhu cầu cao của người dân.
Về khoa học & công nghệ: Nghiên cứu về dịch bệnh và sản xuất nguồn giống còn chưa có nhiều công nghệ được áp dụng; công nghệ xử lý môi trường, cảnh báo thiên tai, dịch bệnh còn nhiều bất cập, khó khăn cho công tác chỉ đạo sản xuất.
Vậy giải pháp cho vấn đề này ra sao, thưa ông?
Cần thực hiện đồng bộ hiệu quả nhiều giải pháp, trong đó liên quan nhiều đến việc thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tiến hành rà soát, điều chỉnh và quy hoạch lại các vùng nuôi tôm trọng điểm trong cả nước, tập trung phát triển TTCT tại những vùng nuôi đủ điều kiện nhưng vẫn duy trì diện tích tôm sú. Các chính sách đầu tư cần tập trung và ưu tiên phát triển hạ tầng cho các vùng nuôi trọng điểm có lợi thế; có nhiều chính sách và biện pháp quản lý sát sao, chặt chẽ chất lượng các yếu tố đầu vào (giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, giá nguyên liệu). Đồng thời, có những chính sách đầu tư công ty; theo đó, xây dựng vùng nuôi tôm công nghiệp, khoa học công nghệ để quản lý môi trường, dịch bệnh; áp dụng khoa học công nghệ những mô hình có hiệu quả vào sản xuất; tăng cường hỗ trợ vốn, ưu đãi, bảo hiểm nông nghiệp.
Tiếp đó, đẩy mạnh liên kết hợp tác giữa các đơn vị bộ ngành liên quan, phối hợp đưa ra những khuyến cáo, hướng dẫn, áp dụng khung mùa vụ sản xuất phù hợp. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách; từ đó nhìn nhận những bất cập để điều chỉnh kịp thời, hợp lý. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất giống và phòng chống dịch bệnh để kịp thời hạn chế rủi ro trong sản xuất.
>> Trong Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020 có đề ra mục tiêu phát triển cụ thể cho từng đối tượng chủ lực; trong đó, đến năm 2020, diện tích tôm nước lợ ước đạt 700.000 ha, tăng trung bình 5,76%/năm. |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã