Học tập đạo đức HCM

ĐBSCL có 375 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên

Thứ ba - 17/11/2020 00:02
Hiện, vùng ĐBSCL có 375 sản phẩm OCOP, trong đó số lượng sản phẩm đạt 3 sao chiếm gần 62,7%, sản phẩm 4 sao là 33%. Với số liệu nói trên, ĐBSCL là vùng có số lượng sản phẩm OCOP đứng thứ 3 cả nước.
Sản phẩm làng nghề ở Bến Tre gắn với phát triển du lịch

Chiều 16/11, Bộ Nnông nghiệp và PTNT phối hợp với UBND tỉnh An Giang tổ chức hội nghị đánh giá “Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018-2020 khu vực phía Nam”.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và PTNT, tính đến tháng 10/2020, đã có 48 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức đánh giá, phân hạng cho các sản phẩm. Đã có 2.169 sản phẩm OCOP được công nhận đạt 3 sao trở lên, đạt 90,4% mục tiêu của chương trình giai đoạn 2018-2020.

Tại các tỉnh, thành phía Nam có 11 địa phương tổ chức đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP, với số lượng sản phẩm được đánh giá, phân hạng chiếm 18,07% tổng số sản phẩm OCOP của cả nước. Trong đó, có 3 tỉnh ĐBSCL là Bến Tre, Sóc Trăng và Đồng Tháp nằm trong nhóm 10 tỉnh có số lượng sản phẩm OCOP cao nhất cả nước.

Hiện, vùng ĐBSCL có số lượng sản phẩm OCOP đứng thứ 3 cả nước, với hơn 375 sản phẩm, chiếm 17,3%; trong đó số lượng sản phẩm đạt 3 sao chiếm gần 62,7% và sản phẩm 4 sao là 33%.

Đặc biệt, các tỉnh ĐBSCL và Đông Nam bộ có cách làm sáng tạo, phát huy lợi thế của các sản phẩm vùng miền như trái cây, lúa gạo, du lịch sinh thái để lựa chọn, tập trung phát triển các sản phẩm OCOP mang đặc trưng của từng địa phương, hình thành chuỗi liên kết bền vững, nâng cao giá trị cho người sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Phát biểu tại hội nghị, ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá cao những kết quả tích cực từ chương trình OCOP, đặc biệt chương trình đã thu hút sự tham gia và phát huy tốt vai trò của phụ nữ thông thôn, các hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương. Tới đây, cần tiếp tục phát huy để chương trình đạt hiệu quả cao hơn góp phần tạo việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế ở nông thôn…

Trà Vinh: Chuyển đổi 3.790 ha rừng phòng hộ sang rừng sản xuất

Tỉnh Trà Vinh vừa phê duyệt phương án chuyển đổi 3.790 ha rừng phòng hộ sang rừng sản xuất từ rừng phòng hộ sang rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh trong năm 2021.

Rừng phòng hộ ven biển tỉnh Trà Vinh

Đồng thời, Trà Vinh cũng sẽ chuyển đổi trên 14.940 ha đất lâm nghiệp quy hoạch phát triển rừng phòng hộ sang phát triển rừng sản xuất, trong đó, diện tích có rừng là trên 3.790 ha, đất trống quy hoạch trồng rừng trên 700 ha, đất khác (đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và bãi bồi ven sông, ven biển) khoảng 10.450 ha.

Việc chuyển đổi nói trên nhằm cơ cấu lại các loại rừng và đất lâm nghiệp phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, tạo sự ổn định trong phát triển sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Qua đây, làm cơ sở để xây dựng các giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng chặt chẽ và bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng các loại rừng góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo cho người dân tham gia sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Qua khảo sát, diện tích rừng phòng hộ chuyển sang rừng sản xuất ở Trà Vinh chủ yếu là diện tích trồng các chủng loại cây rừng ngập mặn (Đước, Dừa nước và rừng hỗn giao) kết hợp nuôi trồng thủy sản ở vùng ven biển của các huyện Châu Thành, Duyên Hải và thị xã Duyên Hải.

Diện tích rừng ở các khu vực này luôn có sự cạnh tranh gây gắt giữa diện tích rừng và mặt nước nuôi thủy sản dẫn đến diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp và tỷ lệ trồng rừng không đạt theo quy hoạch do hiện tại là rừng phòng hộ không được khai thác. Khi chuyển sang rừng sản xuất các chủ rừng sẽ có điều kiện trồng lại các loại cây rừng mới có năng suất, chất lượng và giá trị kinh tế cao góp phần nâng cao thu nhập cho người dân tham gia sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Trà Vinh có tổng diện tích quy hoạch đất lâm nghiệp khoảng 23.984 ha, trong 05 năm qua, tỉnh đã trồng mới được gần 630 ha rừng tập trung và 300 ngàn cây lâm nghiệp phân tán, nâng tổng diện tích rừng toàn tỉnh đến cuối năm 2020 là 9.365 ha, chủ yếu là rừng phòng hộ, tỷ lệ che phủ rừng đạt hơn 4%, tăng 0,84% so với năm 2015.

Kiên Giang: Sử dụng máy bay gieo sạ lúa

Vụ lúa hè thu năm 2020, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Hòn Đất (Kiên Giang) phối hợp Công ty Cổ phần Đại Thành, Ủy ban nhân dân xã Lình Huỳnh triển khai mô hình gieo sạ lúa, phun thuốc bằng máy bay. Máy bay sạ lúa có dung tích bình chứa 16 lít, thời gian sạ lúa 30 phút/ha, lượng giống sạ/lần bay là 5kg giống.

Máy bay sạ lúa tại xã Lình Huỳnh (Hòn Đất)

Được biết, ruộng mô hình và ruộng đối chứng đều gieo sạ giống lúa DS1. Hai ruộng gieo sạ cùng ngày, chung một lô đất và cùng người canh tác. Ruộng mô hình sạ mật độ 65kg/ha. Ruộng đối chứng sạ bằng máy phun phân bón với mật độ 80kg/ha. Qua thực hiện mô hình ghi nhận thời gian sạ lúa bằng máy bay và thời gian sạ lúa bằng máy phun phân bón tương đương nhau (khoảng 30 phút/ha). Sau khi gieo sạ 5 ngày cho thấy ruộng sạ lúa bằng máy bay tuy có lượng giống ít hơn nhưng lúa lên dày và đều hơn so với ruộng sạ bằng máy phun phân bón.

So ruộng đối chứng, ruộng lúa sạ bằng máy bay có lượng phân đạm và lân thấp hơn từ 5-10kg/ha (do ruộng sạ bằng máy bay lúa lên đồng đều hơn ruộng đối chứng nên không cần phải dặm thêm phân bón); có lượng lúa giống 65kg/ha, ít hơn 15kg/ha, giảm được 195.000 đồng/ha tiền lúa giống. Ruộng trình diễn lợi nhuận 25.956.000 đồng/ha, cao hơn 466.000 đồng/ha so với ruộng đối chứng sạ bằng máy phun phân bón.

Qua thực hiện mô hình trên cho thấy, việc sử dụng máy bay phun thuốc để gieo sạ lúa trên địa bàn xã Lình Huỳnh bước đầu mang lại hiệu quả cho nhà nông và được nông dân tham gia tìm hiểu. Mô hình mang lại một số lợi ích: Hướng việc sản xuất nông nghiệp bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu; góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống người dân; giảm ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên; giảm bớt công lao động.

Tuy nhiên, việc sử dụng máy bay phun thuốc để gieo sạ lúa còn một số khó khăn như: thời tiết ảnh hưởng lớn đến sản xuất lúa; giá dịch vụ phun thuốc, sạ lúa còn cao; máy bay sạ lúa vận hành phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật cao nên nông dân khó tiếp cận; mặt bằng đồng ruộng chưa được bằng phẳng, đồng đều...

Theo  Hoàng Văn (tổng hợp)/kinhtenongthon.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Văn bản ban hành

Công văn số 6748/UBND-NL5

Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024

Văn bản số 4414/UBND-NL5

Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới

Văn bản số 4305/UBND-NL5

Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố

Quyết định số 15/2024/QĐ-UBND

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh

Công văn số 3608/UBND-NL5

Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã

Hát về nông thôn mới
MÃ QR CODE ZALO-BỘ NỘI VỤ Bộ nông nghiệp Cổng thông tin Đảng bộ hà tĩnh Công báo tỉnh Điều hành tỉnh Dự thảo văn bản văn bản Nhật ký truyền thanh
Thăm dò ý kiến

Theo bạn thực hiện Chương trình OCOP nên phát triển theo hướng nào:

Thống kê
  • Đang truy cập385
  • Hôm nay91,585
  • Tháng hiện tại812,705
  • Tổng lượt truy cập90,876,098
®VĂN PHÒNG ĐIỀU PHỐI CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Trưởng ban biên tập:  Nguyễn Văn Việt - Chánh Văn phòng 
Phó trưởng ban biên tâp: Ngô Ðình Long - Phó Chánh Văn phòng
Địa chỉ: 148 - Đường Trần Phú - Thành Phố Hà Tĩnh
Điện thoại: 02393.892.689;  Email: nongthonmoitinhhatinh@gmail.com
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây