Vì sao nông dân bỏ ruộng
Người nông dân rời bỏ đồng ruộng không chỉ bởi sức hút tự nhiên của quá trình đô thị hóa và tái cấu trúc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế vốn đi từ tiểu nông, với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và gắn với nông nghiệp, mà còn từ các dự án di dời lấy đất nông nghiệp cho phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch được phê duyệt.
Dân trả ruộng cho xã vì theo người dân "thu không đủ chi". Thực tế cho thấy, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố và rủi ro, như thời tiết, sâu bệnh, chuột bọ và các chi phí sản xuất đầu vào khác. Đặc biệt, sức hấp dẫn của người nông dân với ruộng đồng ngày càng giảm khi giá cả phân bón, vật tư tăng cao, còn lãi suất tín dụng và đầu tư Nhà nước vào nông nghiệp còn nhiều bất cập; trong khi đó, nông sản không tiêu thụ được hoặc giá bán nông sản lại thấp do chất lượng và hàm lượng chế biến thấp, nên người sản xuất có thu nhập thấp, không có thu nhập, thậm chí chịu lỗ.
Đồng thời, cơ chế phân bổ hạn ngạch thu mua trữ nông sản được trợ cấp từ ngân sách Nhà nước chưa thật sự hợp lý, một số doanh nghiệp không đủ năng lực hay không có hợp đồng thu mua cũng được phân bổ hạn ngạch và ăn trung gian giá, khiến lợi ích trợ giá khó tới được người nông dân...
Ngoài ra, hiện tượng đất nông nghiệp bị xé nhỏ, manh mún, phân tán gây khó trong tổ chức sản xuất theo hướng công nghiệp và công nghệ cao, càng làm giảm động lực tham gia kinh doanh nông nghiệp đối với các doanh nghiệp (có hộ có bốn sào ruộng nhưng có đến chín mảnh. Mỗi mảnh từ năm đến sáu thước, lại nằm cách xa nhau, khó thuê máy móc do không quay được đầu máy). Nói cách khác, lợi thế đầu tư và phát triển nông nghiệp theo bề rộng và nhờ sự giải phóng tâm lý những ngày đầu được giao ruộng đã tới giới hạn, cần được thay bằng yêu cầu tích tụ tập trung ruộng đất và đầu tư phát triển theo bề sâu trong nông nghiệp.
Các khoản thu địa phương gắn với ruộng được giao khoán trĩu nặng đôi vai người nông dân. Dù Nhà nước đã miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, thủy lợi phí, nhưng nhiều địa phương lại đặt ra từ 15 đến 40 khoản thu các loại gắn với ruộng, đất trong sổ bộ; trong đó, nhiều nhất là phí dịch vụ của HTX và các khoản thu của thôn, đội, như: Phí chuyển giao khoa học kỹ thuật; bảo vệ thực vật; bảo vệ đồng ruộng; dịch vụ thủy nông; quỹ nội đồng; tiền bắt chuột; thu làm đường bê-tông; tiền điện đường; quỹ Hội Nông dân; xây dựng đường giao thông; đổ đất bờ ao; vệ sinh môi trường; tang lễ; quỹ trẻ thơ; quỹ khuyến học. Phần lớn các khoản đóng góp được tính dựa trên diện tích đất ruộng của từng gia đình.
Theo thống kê của Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn (Bộ NN và PTNT), tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, trung bình mỗi hộ nông dân được giao từ năm đến sáu sào ruộng (một sào Bắc Bộ = 360 m2). Nếu chỉ cấy hai vụ lúa với giá trị sản xuất 4,5 triệu đồng, trừ chi phí, mỗi hộ còn thực lãi 2,2 triệu đồng/năm, tương đương 183 nghìn đồng/tháng và 6.100 đồng/ngày. Trừ tiếp các khoản đóng góp do xã và các tổ chức thu (bình quân toàn vùng là 150 nghìn đồng/hộ), mỗi hộ chỉ còn khoảng hơn hai triệu đồng trang trải cho cuộc sống, tính ra một hộ thuần nông chỉ được phép tiêu trong phạm vi 5.500 đồng/ngày. Theo báo cáo của 46 tỉnh, thành phố và kết quả điều tra của Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn, số lượng, mức thu các khoản đóng góp của hộ nông dân rất cao. Bình quân mỗi hộ phải chịu từ 30 đến 40 khoản đóng góp, với mức 250 nghìn đến 800 nghìn đồng/năm. Nhiều nơi, hộ nông dân chịu hơn 20 khoản đóng góp do xã và các tổ chức thu, mức thu bình quân 300 nghìn đến 500 nghìn đồng/hộ/năm và khoảng 10 khoản phí dịch vụ do hợp tác xã thu, với mức 200 nghìn đến 300 nghìn đồng/hộ/năm. Cụ thể, tại đồng bằng sông Hồng, có 26 khoản đóng góp chính thức, mức thu 350 nghìn đến 500 nghìn đồng/hộ/năm; khu vực trung du miền núi phía bắc có 28 khoản đóng góp với mức 250 nghìn đến 450 nghìn đồng/hộ/năm; khu vực duyên hải Nam Trung Bộ 28 khoản và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) 25 khoản, đạt kỷ lục về mức đóng góp, 300 nghìn đến 700 nghìn đồng/hộ/năm. Trong các khoản đóng góp, có hai khoản nông dân phải đóng nặng nhất là xây dựng giao thông nông thôn và trường học, bình quân 672 nghìn đến 872 nghìn đồng/hộ/năm. Trong 10 khoản thu phí dịch vụ của hợp tác xã (thủy lợi phí, dịch vụ bảo vệ thực vật, phí bảo vệ đồng điền,...) thì thủy lợi phí là nặng nhất, chiếm 70% tổng chi phí dịch vụ mà xã viên phải đóng góp mỗi năm (khoảng 380 nghìn đồng).
Số lượng nông dân di cư ra thành phố tăng mạnh, để lại làng quê chủ yếu là đàn bà, ông già và con trẻ, khiến lao động nông nghiệp bị thiếu hụt cũng là nguyên nhân khiến tình trạng bỏ ruộng ngày càng nhiều.
Để người nông dân gắn bó với ruộng đồng
Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm hỗ trợ và chính sách thiết yếu cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để người nông dân an tâm gắn bó, có tích lũy, thu nhập ổn định và thật sự biến "Tấc đất tấc vàng", cần có thêm những đột phá trong nhận thức và hành động.
Trước mắt, một mặt, tiếp tục quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp một cách khoa học và hiệu quả, giữ ổn định quỹ đất (nhất là bảo đảm chỉ tiêu 3,8 triệu ha đất lúa để bảo đảm an ninh lương thực). Mặt khác, khuyến khích người dân và doanh nghiệp tự nguyện tích tụ, tập trung, dồn điền, đổi thửa tạo điều kiện mở rộng canh tác và kinh doanh nông nghiệp bằng cơ giới và công nghệ cao.
Đặc biệt, cần tăng quy mô, đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tăng nguồn tín dụng lãi suất thấp, điều kiện vay thuận lợi và minh bạch hơn cho các hộ nông dân và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp, nông thôn.
Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp về vật tư, giống má trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, trợ giá các loại giống cây mới có chất lượng cao và hiệu quả thương mại, cung ứng phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc theo giá hợp lý với phương thức trả chậm cho nông dân; nghiên cứu đổi mới cách thức mua trữ, giữ ổn định giá, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản và bảo đảm lợi ích hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước đến với người dân; khuyến khích các loại hình và sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp phù hợp.
Ngoài ra, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần tăng cường chỉ đạo, rà soát, giảm thiểu danh mục và mức độ đóng góp, giảm gánh nặng các khoản đóng góp cho nông dân; thúc đẩy tiến độ và nâng cao chất lượng xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là các công trình thủy lợi, kênh mương, giao thông, trường học và trạm y tế; phát triển các cơ sở chế biến nông sản và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm cho nông dân; đồng thời, đẩy mạnh đào tạo lao động, mở mang ngành nghề, dịch vụ tạo việc làm mới cho nông dân; kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ địa phương nói riêng, cũng như năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước các cấp có liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn nói chung...
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã