Có thể lấy ví dụ như ở Nghệ An, trong công tác nhân giống cam, gần như cả tỉnh này không có vườn cây đầu dòng, không có vườn cây sạch bệnh và các cơ sở sản xuất giống chủ yếu chỉ theo kinh nghiệm đã “xưa như trái đất”.
Đó là nông dân bằng cách chọn lấy một số cái cây cam tốt, xanh, đẹp và tưởng đó là sạch bệnh. Họ cảm tính nghĩ là thế, và rồi lấy những mắt ghép từ những cây cam đó đem nhân ra hàng loạt để bán cho người dân trồng, không theo một quy trình nào.
Nhiều vùng cam mới trồng như Lục Ngạn (Bắc Giang) cũng đã xuất hiện nhiều bệnh nguy hiểm. Ảnh: TL
PGS.TS Nguyễn Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Cây ăn quả Miền Nam cho biết: Bệnh vàng lá đã từng hủy diệt cây có múi ở nhiều nước chứ không riêng Việt Nam. Về kinh nghiệm phòng trị bệnh, TS Châu cho rằng đến nay, Đài Loan và vùng Quảng Tây (Trung Quốc) có thể nói là đã rất thành công trong việc kiểm soát các bệnh nguy hiểm này.
Trong đó, kinh nghiệm cho thấy khâu kiểm soát giống cây có múi sạch bệnh là yêu cầu quan trọng hàng đầu để khống chế các bệnh vàng lá. Theo đó, việc sản xuất số lượng cây giống sạch bệnh quy mô lớn để cung ứng cho người dân rất được chú trọng.
Điều này chắc chắn phải có sự hỗ trợ, trợ giá của nhà nước, qua đó giúp mật độ của cây bệnh trong sản xuất từng bước được kiểm soát, cây bị bệnh dần không còn có mặt trong sản xuất, áp lực lây lan bệnh lên cây sạch bệnh mới trồng ngày càng ít... Vì vậy, Việt Nam cũng cần phải sớm có chính sách hỗ trợ của nhà nước trong khâu quản lí, sản xuất giống cây có múi sạch bệnh để cung ứng cho nhu cầu sản xuất của người dân.
Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Xuân Hồng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có múi (Viện Nghiên cứu Rau quả), đơn vị có bề dày trên 40 năm về nghiên cứu, chuyển giao giống cây ăn quả có múi cho rằng, biện pháp phải sử dụng hoàn toàn giống sạch bệnh chất lượng cao là yêu cầu hàng đầu để kiểm soát dịch bệnh trên cây có múi hiện nay.
Hệ thống nhà lưới, nhà kính đảm bảo yêu cầu kỹ thuật để sản xuất giống cây có múi từ S0 đến S2 tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có múi (Xuân Mai, Hòa Bình). Ảnh: Lê Bền
Theo đó, cần phải thực hiện một cách đồng bộ, có hệ thống đủ năng lực và kinh nghiệm sản xuất. Ngay từ khâu sản xuất ra hạt làm nguồn gieo đến cây gốc ghép, đã phải gieo trồng trong điều kiện cách ly và chất lượng cao, sạch bệnh trong nhà lưới cách ly.
Tiếp tục đến khâu bình tuyển ngoài thực tế sản xuất của bà con để chọn ra những cây ưu tú nhất từ những cây đầu dòng, phải sử dụng công nghệ vi ghép đỉnh sinh trưởng để tạo ra cây đồng dòng cao cấp S0. Từ cây đầu dòng cao cấp S0 này, lưu giữ và sản xuất trong điều kiện đặc biệt trong phòng thí nghiệm rồi mới nhân ra cây bố mẹ ưu tú sạch bệnh S1.
Từ cây S1 này, tiếp tục tăng hệ số nhân giống lên để cung cấp nguồn mắt ghép sạch bệnh phục vụ nhân giống ghép ra những cây giống S2 sạch bệnh, chất lượng cao, đồng đều để cung cấp cho cơ sở trồng mới cho bà con nông dân để trồng mới.
Đây là những điều kiện, quy trình tiên quyết để sản xuất được giống sạch bệnh, theo quy trình, hệ thống nhà lưới 3 cấp đảm bảo cách ly từ cây bố mẹ gốc ghép cho đến cây đầu dòng cây bố mẹ và nguồn mắt ghép đều phải sạch bệnh và biện pháp nhân giống cũng phải được thực hiện trong điều kiện cách ly.
Nguồn tin: Lê Bền/nongnghiep.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Triển khai Kế hoạch số 323/KH-UBND ngày 10/7/2024 của UBND tỉnh về thực hiện Kết luận số 70-KL/TW ngày 31/01/2024 của Bộ Chính trị về phát triển TDTT trong giai đoạn mới
Kết luận của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 15/7/2021 của Tỉnh ủy về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Đề án “Thí điểm xây dựng tỉnh Hà Tĩnh đạt chuẩn NTM giai đoạn 2021-2025
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố