|
Phát biểu tại Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát khẳng định: Phát triển sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an sinh xã hội. Nông nghiệp là hậu phương vững chắc giúp nền kinh tế sớm ra khỏi ảnh hưởng khủng khoảng của kinh tế toàn cầu thông qua việc tạo ra nhiều công ăn việc làm, thu nhập cho số đông dân cư, và đặc biệt quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Vì vậy việc phát triển doanh nghiệp trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ lợi và thuỷ sản (sau đây viết tắt là doanh nghiệp nông nghiệp) cả về số lượng cũng như quy mô hoạt động và tăng cường hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở các vùng nông thôn, miền núi và miền biển, góp phần vào việc xoá đói, giảm nghèo cho đất nước.
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tính đến 31/12/2009, nước ta có 8.749 doanh nghiệp nông nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh (chiếm trên 3,5% tổng số doanh nghiệp của tất cả các ngành kinh tế của cả nước). Những doanh nghiệp ấy đã giúp cho trên 380.000 lao động có việc làm, chiếm trên 4% tổng số lao động trong các doanh nghiệp của tất cả các ngành kinh tế và bằng 1,6% tổng số lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp.
Trong khi Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở nông thôn, trong đó gần 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp thì việc phát triển những doanh nghiệp nông nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thực tế trong những năm qua cho thấy, mỗi năm, bình quân kinh tế nông nghiệp đóng góp trên 20% cho GDP của cả nước. Năm 2011, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 5,2% so với năm 2010, trong đó nông nghiệp tăng 4,78%, lâm nghiệp tăng 5,74%, thuỷ sản tăng 6,39%; tốc độ tăng trưởng toàn ngành đạt khoảng 3%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ san năm 2011 đạt gần 25 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2010.
Cũng trong năm 2011, đã có 4 mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD là: thuỷ sản 6,1 tỷ; đồ gỗ 4,1 tỷ; gạo 3,7 tỷ; cao su 3,3 tỷ. Các mặt hàng khác như: cà phê có kim ngạch xuất khẩu 2,7 tỷ USD và hạt điều có kim ngạch xuất khẩu trên 1,5 tỷ USD. Thặng dư thương mại toàn ngành đạt trên 9,2 tỷ USD, góp phần tích cực vào cán cân thương mại của cả nước.
Năm 2011 cũng là năm thắng lợi kép "được mùa, được giá" của ngành do đó nông nghiệp nông thôn tiếp tục phát triển khá toàn diện, đời sống của phần lớn dân cư nông thôn tiếp tục được cải thiện. Thành tích nêu trên đã thể hiện sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp nông lâm nghiệp, thuỷ lợi và thuỷ sản của cả nước.
Các doanh nghiệp nông nghiệp còn nhiều khó khăn
Tuy số lượng doanh nghiệp nông nghiệp là khá lớn, nhưng về thực chất, thực hiện chính sách sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu doanh nghiệp nông nghiệp giữa khu vực quốc doanh và dân doanh đang có sự thay đổi. Số lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ngày càng giảm, số lượng doanh nghiệp dân doanh ngày càng tăng. Trên 98% số doanh nghiệp nông nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Số lao động bình quân làm việc trong một doanh nghiệp nông nghiệp là trên 40 người. Trên 90% số doanh nghiệp nông nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng; 6,5% số doanh nghiệp có vốn từ 10 đến 50 tỷ đồng và trên 1% số doanh nghiệp có mức vốn trên 200 tỷ đồng. Vốn sản xuất kinh doanh tính bình quân cho 1 lao động trong các doanh nghiệp nông nghiệp là 200 triệu đồng, bằng gần ¼ số vốn bình quân cho 1 lao động trong các doanh nghiệp của tất cả các ngành kinh tế. Thông qua mức đầu tư vốn tại các doanh nghiệp nông nghiệp cho thấy, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nông nghiệp còn ở mức nhỏ bé so với nhu cầu thực tế và so với doanh nghiệp các ngành kinh tế khác. Quy mô vốn nhỏ sẽ khó khăn trong việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh và thị trường.
Theo ông Phạm Ngọc Thao, Hiệp hội mía đường Việt Nam: Nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được các nguồn vốn vay của các ngân hàng nhất là các doanh nghiệp nhỏ. Nguyên nhân do phương án kinh doanh chưa khả thi, năng lực tài chính yếu chưa đủ điều kiện thế chấp và tín chấp đối với khoản vốn xin vay. Khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của doanh nghiệp nông nghiệp còn yếu do còn thiếu thông tin về thị trường và các quy định của thương mại quốc tế. Chất lượng sản phẩm nông sản còn thấp so với tiêu chuẩn xuất khẩu, khối lượng sản phẩm sản xuất ra chưa nhiều, thậm chí còn manh mún. Tính đến nay, danh mục sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu uy tín trên thị trường quốc tế của Việt Nam còn rất ít. Do vậy, dẫn đến khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp nông nghiệp bị hạn chế.
Còn theo ông Trần Trọng Báo, Hiệp hội giống cây trồng Việt Nam: Phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp có trình độ khoa học, công nghệ lạc hậu, tay nghề công nhân thấp do vậy chất lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ thấp, khả năng cạnh tranh yếu, chi phí giá thành cao, đầu tư đổi mới kỹ thuật và công nghệ còn thấp so với yêu cầu phát triển. Bên cạnh yếu kém về chất lượng sản phẩm hàng hóa, thì việc thiếu hụt về công nghệ thông tin và khả năng ngoại ngữ cũng là nguyên nhân quan trọng thể hiện doanh nghiệp nông nghiệp chưa thật sự có đủ sức mạnh trước yêu cầu cấp bách của hội nhập.
Các doanh nghiệp nông nghiệp cũng đang gặp khó khăn khác như chính sách hiện hành về đất đai còn nhiều thủ tục rườm rà; giá thuê đất cao nên khó tìm được mặt bằng sản xuất, kinh doanh phù hợp.
Cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn
Theo ông Phạm Xuân Hoàn, Phó Trưởng Ban Đổi mới doanh nghiệp Bộ NN&PTNT, hiện nay, Bộ cũng đã có nhiều giải pháp đồng bộ để giúp các doanh nghiệp nông nghiệp yên tâm sản xuất như: Tổ chức diễn đàn doanh nghiệp nông nghiệp hàng năm nhằm tiếp thu ý kiến phản ánh của các doanh nghiệp về khó khăn và vướng mắc mà doanh nghiệp đang gặp phải đồng thời bàn các biện pháp tháo gỡ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển; Trợ giúp thông tin cho doanh nghiệp thông qua đăng tải thông tin về chính sách của nhà nước có liên quan đến doanh nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng; Tiến hành các hoạt động đào tạo nhằm tăng cường trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng lao động của doanh nghiệp để tiến kịp xu thế hội nhập kinh tế quốc tế; Tiến hành khảo sát thực địa doanh nghiệp hàng năm để nắm bắt tình hình thực tế và đề xuất kịp thời các chính sách, biện pháp trợ giúp doanh nghiệp phát triển.
Chính phủ cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã quy định các chính sách trợ giúp và khuyến khích doanh nghiệp phát triển như: trợ giúp tài chính thông qua việc khuyến khích thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng; trợ giúp mặt bằng; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học kỹ thuật; chính sách miễn, giảm tiền thuê đất, mặt nước cho các nhà đầu tư...
Tuy nhiên, theo các đại biểu tham dự Diễn đàn, chủ trương, chính sách thì đã có, nhưng việc áp dụng trong thực tế vẫn còn nhiều khâu vướng mắc cần được tháo gỡ để các doanh nghiệp được thuận lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh, ổn định sản xuất.
Được biết, sau Diễn đàn này, Bộ NN&PTNT cũng sẽ tổ chức một diễn đàn nữa tại khu vực phía Nam để tổng hợp các ý kiến và có những giải pháp cụ thể hơn trong thời gian tới, giúp các doanh nghiệp nông nghiệp tháo gỡ khó khăn, phát triển sản xuất./.Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã