Sản xuất thanh long đã đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với nhiều loại cây trồng khác và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, Bình Thuận đang tích cực triển khai nhiều biện pháp tìm thị trường xuất khẩu. Đồng thời, đa dạng các sản phẩm từ trái thanh long để có hướng đi bền vững cho cây này.
Thanh long được xếp vào nhóm 12 cây ăn quả chủ lực của Việt Nam và là 1 trong 9 loại cây trồng chủ lực của Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Diện tích trồng thanh long tại Việt Nam hiện nay khoảng 37.000 ha; trong đó, Bình Thuận là tỉnh có diện tích thanh long lớn nhất cả nước với 27.000 ha, sản lượng hàng năm đạt hơn 600.000 tấn (chiếm 80% sản lượng thanh long cả nước). Hiện thanh long Bình Thuận tiêu thụ trên thị trường chủ yếu là trái tươi; ước tính khoảng 15-20% sản lượng thanh long cung cấp cho thị trường nội địa; 80-85% tập trung cho xuất khẩu.
Để mở rộng thị trường tiêu thụ thanh long, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và UBND tỉnh Bình Thuận đã triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ thanh long trong và ngoài nước như: tổ chức các hoạt động kết nối, mở rộng thị trường tiêu thụ trái thanh long của tỉnh Bình Thuận, thực hiện mô hình thí điểm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp (mô hình tiêu thụ thanh long).
Cùng với đó, ban hành văn bản chỉ đạo triển khai đồng bộ hóa các giải pháp nhằm đẩy nhanh thời gian thông quan hàng hóa; các cơ quan kiểm dịch tại khu vực cảng, cửa khẩu ưu tiên và tạo điều kiện thuận lợi trong kiểm dịch thực vật đối với thanh long xuất khẩu. Ngoài ra, tăng cường an ninh, trật tự trên địa bàn cho thương nhân thu mua thanh long; cho phép các biện pháp phù hợp để ưu tiên đối với việc vận chuyển thanh long, điều tiết kịp thời các phương tiện vận tải để tránh tình trạng ùn tắc hàng hóa…
Ông Đỗ Minh Kính, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bình Thuận cho biết, với việc Australia đã chính thức cho phép nhập khẩu trái thanh long của Việt Nam là một tin vui rất lớn cho người trồng thanh thanh long Bình Thuận. Hiện thanh long Bình Thuận đã xuất khẩu vào 15 thị trường các nước; trong đó, chủ lực là châu Á (chiếm 84%), châu Âu (khoảng 14%) và còn lại là châu Mỹ. Ngoài thị trường truyền thống là Trung Quốc, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh xuất khẩu thanh long sang Ấn Độ, Myanmar, Hàn Quốc…
Nhằm đa dạng sản phẩm thanh long, nhiều công ty, đơn vị đã nghiên cứu sản phẩm mới từ thanh long, tạo đầu ra cho trái thanh long. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có hơn 10 đơn vị, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chế biến từ trái thanh long. Nhiều hợp tác xã thanh long trên địa bàn bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm thanh long từ chính vùng nguyên liệu của mình như: sản phẩm rượu vang thanh long hợp tác xã Hàm Đức (huyện Hàm Thuận Bắc), thanh long sấy khô hợp tác xã Phan Long (thành phố Phan Thiết), si rô, rượu vang của hợp tác xã Hàm Kiệm (Hàm Thuận Nam)…
Theo ông Đỗ Minh Kính, trước tình trạng diện tích thanh long phát triển mạnh, thị trường tiêu thụ trái thanh long ngày càng khó khăn, việc phải tìm một hướng đi mới để nâng cao giá trị cho trái thanh long, đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường là một việc làm hết sức cần thiết. Hiện nay, quy trình sản xuất sản phẩm từ thanh long như: nước ép, sấy khô, sấy dẻo, rượu thanh long… được các đơn vị kiểm soát chất lượng chặt chẽ từ khâu nguyên liệu, chế biến sản phẩm, đóng gói đến kho chứa. Do đó, các sản phẩm này bước đầu đã thâm nhập thị trường và được người tiêu dùng đánh giá cao.
Ông Nguyễn Phú Hoàng, Chủ tịch Liên minh hợp tác xã Bình Thuận cho biết, hiện nay việc bán trái thanh long tươi còn nhiều hạn chế như thời gian bảo quản, giá trị gia tăng không cao… Việc tạo ra dòng sản phẩm chế biến ngay từ vùng nguyên liệu thanh long dồi dào là một hướng đi đúng đắn. Điều này không những giải quyết vấn đề tiêu thụ trái trong những lúc dư thừa mùa chính vụ mà còn góp phần đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá trị gia tăng cho thanh long Bình Thuận. Tuy nhiên, hiện nay các hợp tác xã đang gặp một số khó khăn về nguồn vốn mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư công nghệ, mở rộng thị trường… Do đó, để phát triển mạnh hơn mô hình sản xuất sau thu hoạch thanh long cần sự vào cuộc hỗ trợ của nhà nước cũng như sự hợp tác phát triển của các đối tác.
Để tránh tình trạng ùn ứ hàng và điệp khúc được mùa mất giá do cung vượt cầu, ngành nông nghiệp tỉnh Bình Thuận khuyến cáo nông dân không phát triển diện tích thanh long ồ ạt, mà tập trung phát triển sản xuất thanh long đi vào chất lượng để phát triển bền vững. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng khuyến khích bà con sử dụng đèn cho thanh long trái vụ nên theo nhiều chu kỳ trên một diện tích canh tác, tốt nhất là mỗi lứa thu hoạch cách nhau 20 ngày. Điều này giúp cho thu hoạch quả thanh long trải đều trong suốt chu kỳ, tránh tình trạng thu hoạch ồ ạt sẽ dễ dẫn đến giá thấp.
Ông Phạm Văn Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận cho biết, để giữ vững thương hiệu cho thanh long, đặc biệt là thị trường xuất khẩu thanh long thế giới, tỉnh đã chỉ đạo Sở Công Thương yêu cầu các cơ sở không thu mua thanh long không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời, ưu tiên mua thanh long đã được cấp giấy chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Muốn thanh long phát triển có hiệu quả, ổn định và bền vững thì phương pháp canh tác duy nhất là phải sản xuất thanh long theo quy trình sạch, nhằm đáp ứng thị trường đang ngày càng đòi hỏi sản phẩm phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng.
Tỉnh cũng chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhắc nhở các đơn vị sản xuất thanh long sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); đặc biệt phải đúng quy trình đã đăng ký với Trung tâm Nghiên cứu phát triển thanh long.
Để phát triển thanh long bền vững, tỉnh Bình Thuận đã quy hoạch diện tích trồng thanh long đến năm 2020 đạt 28.000 ha, năng suất đạt 28 tấn/ha, sản lượng đạt 750.000 tấn. Đến năm 2025 sẽ mở rộng lên 30.000 ha, năng suất bình quân đạt 30 tấn/ha, sản lượng đạt trên 850.000 tấn. Theo quy hoạch sẽ nâng tỉ lệ diện tích trồng thanh long an toàn (VietGAP, GlobalGAP) năm 2020 đạt trên 50% và đến năm 2025 đạt trên 70%./.