Tảo là sinh vật thích nghi tốt với môi trường, chúng phát triển mạnh ở vùng đất hoang, nước thải và vùng nước mặn. Chúng có thể mọc dày, trong bóng tối và khi có sự hiện diện của nồng độ cao ni tơ và phốt phát. Khai thác sức mạnh thích nghi của tảo là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới. Các nhà khoa học chăn nuôi nhìn thấy tiềm năng của vi tảo ở dạng thức ăn chăn nuôi bền vững, năng lượng cao cũng như bổ sung hàm lượng protein.
Thức ăn có nguồn gốc vi tảo đang được nghiên cứu sử dụng cho bò sữa Ảnh: Shutterstock
Hiện tại ở châu Âu, vi tảo được đăng ký làm thức ăn chăn nuôi hoặc nguyên liệu thức ăn gia súc (quy định của EU 767/2009) như là: Spirulina maxima và Spirulina platensis; Schizochytrium. Các vi tảo có thể được thêm vào thức ăn như bột tảo nguyên chất và bột tảo đã khử chất béo, dầu vi tảo hoặc sinh khối tảo khô... Các hình thức này khác nhau về tỷ lệ phần trăm chất béo thô.
Các thức ăn có nguồn gốc vi tảo trong chế độ ăn của gia súc được giới thiệu để bổ sung khẩu phần ăn, như là nguồn gốc của:
- Năng lượng: được sử dụng trong việc thay thế một phần ngô hoặc bổ sung vào việc bổ sung lipid.
- Protein: thay thế một phần đậu nành hoặc hạt cải dầu.
- Tăng cường hệ thống phòng thủ chống ôxy hóa và tình trạng ôxy hóa của các sản phẩm với hàm lượng tự nhiên của các hợp chất chống ôxy hóa tự nhiên.
Trong các nghiên cứu xem xét về khả năng sử dụng trong khẩu phần ăn, vi tảo đã được lưu ý rằng khi bổ sung các sản phẩm tảo vượt quá có thể dẫn đến sự thụt giảm trong chế độ ăn uống của bò sữa. Mặc dù không cụ thể ghi nhận sự sụt giảm tổng lượng thức ăn, một số tác giả đã phát hiện những thay đổi về chất lượng thu nạp thức ăn trong lượng tiêu thụ. Đặc biệt, việc giảm lượng chất cô đặc có chứa vi tảo được cân bằng bởi lượng thức ăn ủ chua cao hơn. Ở bò, số lượng tối đa vi tảo ăn vào mà không ảnh hưởng đến lượng thức ăn thay đổi trong các nghiên cứu khác nhau trong phạm vi khá rộng từ 4 - 79 g vi tảo/kg chất khô trong khẩu phần ăn. Sự tăng giảm phụ thuộc vào các loại khẩu phần thức ăn, ví dụ các sản phẩm dựa trên bột tảo ở bò sữa, được chấp nhận lên đến khoảng 10 - 11 g/kg lượng chất khô, trong khi bữa ăn được tạo thành từ vi tảo đã khử chất béo và soyhulls, xuất hiện được dung nạp tốt hơn, tới 92 g/kg chất khô. Mặt khác, các nghiên cứu về bổ sung dầu tảo đã chỉ ra rằng nó không ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nạp của bò nếu tích hợp lên đến 194 g/ngày. Ở cừu, giảm lượng thu nạp thức ăn đã được quan sát với một chế độ bổ sung sinh khối tảo khoảng 12 g/kg (giá trị ước tính).
Liên quan đến tác động của vi tảo trên định lượng sữa, không dễ dàng so sánh tài liệu vì sự khác biệt về lượng tảo bổ sung, trong suốt thời gian thử nghiệm và trong chế độ ăn kiêng. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả nghiên cứu tại Ý đã không tìm thấy ảnh hưởng đến sản lượng sữa ở bò hoặc những gia súc khác, và không có hiệu ứng nào được ghi nhận trong các nghiên cứu về sự giảm hoặc thay đổi lượng tiêu thụ vi tảo. Tuy nhiên, tài liệu cũng báo cáo các trường hợp xảy ra tổn thất về sản xuất. Ví dụ, theo nghiên cứu của TS. Boeckaert và các cộng sự nước Ý (2008) cho thấy sản lượng sữa thấp hơn 45% đối với bò sữa khi được cho ăn tảo với số lượng 43 g/kg DM khẩu phần thông qua lỗ rò dạ cỏ. Sản lượng giảm cũng đã được tìm thấy ở cừu với 25 g/kg sinh khối tảo DM trong chế độ ăn, trong khẩu phần ăn cũng bao gồm ngô ủ chua và cỏ linh lăng hay cỏ khô. Mặt khác, việc sử dụng Spirulina (200 g mỗi ngày, khoảng 10 - 14 g/kg DM) dẫn đến sản lượng sữa cao hơn ở bò có mức tăng tối đa 25% trong sản xuất hàng ngày và trong thời gian thử nghiệm 90 ngày. Các tác giả giải thích rằng sự cải thiện này là do thành phần hóa học của vi tảo Spirulina platensis, ảnh hưởng đến cả hoạt tính sinh học của hệ thực vật và hệ sinh thái của động vật.
Hơn nữa, các nghiên cứu nhận thấy, trong chế độ ăn có vi tảo, bò uống nhiều nước hơn. Khía cạnh này, theo các nhà khoa học tại Ý cần được nghiên cứu thêm vì lượng nước tăng có thể ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sữa. Ngoài ra, tác dụng có lợi của một số loài vi tảo trên tình trạng trao đổi chất và hệ thống phòng thủ của động vật cũng như tình trạng ôxy hóa của sản phẩm đã được báo cáo. Về vấn đề này, trong báo cáo của TS. Tsiplakou (2018) tìm thấy hoạt động của superoxide dismutase cao hơn trong máu và sữa; các hoạt động catalase cao hơn trong huyết tương ở dê được cho ăn Chlorella vulgaris. Superoxide dismutase và Catalase là một trong những thành phần chính của các cơ chế bảo vệ chống ôxy hóa nội bào, điều hòa các phân tử ôxy phản ứng tích tụ trong các mô, trong khi enzyme lactoperoxidase trong sữa có liên quan đến quá trình ôxy hóa chất béo. Trong nghiên cứu được báo cáo ở trên cũng đã tìm thấy sự giảm sinh học gây stress oxy hóa (protein carbonyls) trong sữa.
Những thay đổi lớn nhất đã được tìm thấy liên quan đến hàm lượng axit béo trong sữa và có liên quan đến các axit béo chuỗi dài và các axit béo của loạt omega 3, đặc biệt là DHA và EPA. Tuy nhiên, bổ sung tảo quá mức dường như có tác động tiêu cực đến sự ngon miệng, lượng thức ăn, sự trao đổi chất dạ cỏ, cũng như tác động tiêu cực đến sản xuất sữa và chất béo.
Cần chú ý cẩn thận đến lượng tảo bổ sung và các hình thức bảo vệ dạ cỏ để tránh giảm lượng thức ăn ăn vào, và sự suy giảm năng suất và chất lượng sữa. Do đó, các tác giả đề cập rằng nghiên cứu thêm là cần thiết để xác định các loài thức ăn thích hợp hơn và ảnh hưởng của việc bổ sung kéo dài. |
Nguyễn Dũng
(Theo Allaboutfeed)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã