Mô hình kiểu mẫu
Năm 2020, Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm (Tập đoàn Quế Lâm) khởi công xây dựng tổ hợp DA chăn nuôi an toàn sinh học (ATSH) 4F tại xã Phong Thu (Phong Điền) trên diện tích 15ha, với tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng. Dự kiến năm 2021 sẽ hoàn thành tổng thể. Đây là DA không chỉ để phục vụ hoạt động sản xuất, chăn nuôi của tập đoàn mà quan trọng hơn, đơn vị này muốn tổ hợp 4F sẽ trở thành một mô hình kiểu mẫu về chăn nuôi hữu cơ cho các nông hộ.
Trong đó, trang trại chăn nuôi lợn ATSH, hữu cơ là hạng mục hoàn thành đầu tiên của DA với diện tích 2ha, được áp dụng tự động hóa trong khâu chăn nuôi, chuồng hở thuận theo tự nhiên có cải tiến, đông ấm, hè mát, sử dụng đệm lót sinh học, máng ăn tự động.
Đến nay, Tập đoàn Quế Lâm đã xây dựng hoàn thành và đưa vào sử dụng trang trại chăn nuôi lợn ATSH với quy mô 8-10 nghìn con lợn thịt và hàng trăm con lợn nái phục vụ tái đàn và phát triển đàn cho trang trại của Quế Lâm và các nông dân liên kết nuôi lợn với đơn vị này.
Cũng trong năm 2020, UBND tỉnh phê duyệt quyết định hỗ trợ đối với ông Đặng Phước Hoàng - chủ cơ sở nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm trên ao tròn lót bạt với kinh phí được hỗ trợ hơn 600 triệu đồng. Đây là mô hình nuôi công nghệ cao bằng chế phẩm sinh học sử dụng công nghệ 3C của Tập đoàn CP Thái Lan (tôm nuôi sạch, nước nuôi sạch và đáy ao sạch) với quy mô 3.000m2.
Mỗi năm, hộ ông Hoàng nuôi được 3 vụ, tổng sản lượng tôm hàng năm đạt khoảng 27 tấn, tổng doanh thu khoảng 4,9 tỷ đồng/năm, lợi nhuận khoảng 1,7 tỷ đồng/năm. Sản phẩm được tiêu thụ thông qua nhà máy đông lạnh tại Phong Điền và các thương lái trong, ngoài tỉnh. Cơ sở giải quyết việc làm thường xuyên cho 4 lao động và việc làm thời vụ cho 3-5 lao động tại địa phương với mức thu nhập bình quân 5 triệu đồng/người/tháng.
Cần sự bứt phá
Khuyến khích, tạo bứt phá trong sản xuất nông nghiệp, UBND tỉnh đã có Quyết định (32/2016/QĐ-UBND ngày 23/5/2016) quy định một số chính sách khuyến khích phát triển, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh giai đoạn 2016 - 2020. Chính sách đã tác động tích cực đến ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững của tỉnh.
Ông Hồ Vang, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT đánh giá, sau thời gian thực hiện, chính sách hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp mở ra hướng đi mới trong công tác quy hoạch, phát triển sản xuất và thúc đẩy ngành kinh tế, góp phần tạo môi trường thuận lợi hơn cho SXNN trên địa bàn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn và ứng dụng tiến bộ KHKT, công nghệ vào sản xuất. Các mô hình, DA hợp tác liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày càng mở rộng về quy mô và diện tích.
Ông Hồ Đăng Khoa, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản tỉnh (CCQLCLNTTS) cho rằng, đầu tư phát triển SXNN nói chung và sản xuất NNS, NNCNC nói riêng từ trước đến nay đã có sự quan tâm đầu tư kinh phí và chính sách của chính quyền, đặc biệt là ngành NN&PTNT đã nhận định đây là các mô hình nền tảng thí điểm để nhân rộng đến nông dân, tiến tới thay đổi thói quen sản xuất truyền thống, áp dụng công nghệ cao nhằm nâng cao năng suất.
Các địa phương từng bước định hướng xây dựng nền SXNN tiên tiến theo các tiêu chuẩn GAP, hữu cơ; đầu tư nhà lưới, hệ thống tưới tiết kiệm vào SXNN, quy hoạch các vùng trồng trọt, chăn nuôi tập trung có quy mô lớn, công tác phát triển thị trường nông sản được quan tâm.
Trong đó, sự liên kết của “4 nhà” trong sản xuất NNS, NNCNC ngày càng chặt chẽ từ khâu sản xuất ban đầu đến khâu bày bán, sản xuất gắn với yêu cầu thị trường, sản phẩm bao gói đa dạng, mẫu mã, hình thức quy cách được quan tâm thiết kế, đầu tư phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Diện tích đất nông nghiệp tỉnh khá lớn nên tiềm năng để phát triển ngành NNS, NNCNC rất lớn với các vùng sản xuất, canh tác tập trung, đặc biệt tại khu vực các huyện Phong Điền, Quảng Điền và Phú Vang.
Tuy nhiên, người sản xuất còn bị động trong việc tìm hiểu áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật cao, tâm lý e ngại thay đổi mặc dù có sự hỗ trợ của chính quyền và cơ quan chức năng. Kinh phí để triển khai các mô hình NNS, NNCNC khá lớn nên việc tự lực của các doanh nghiệp, hộ cá thể còn ở thiểu số.
Ông Khoa nhận định, quy mô hộ sản xuất nhỏ, ít nhân công nên việc áp dụng NNS, NNCNC cần sự liên kết từ nhiều hộ hoặc các tổ hợp tác mới phát huy được hiệu quả mô hình. Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh, liên kết với tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn ở nhiều địa phương còn chậm dẫn đến sản lượng, quy mô liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn còn hạn chế.
Hiện nay, tỷ lệ sản lượng sản phẩm rủi ro cao, bức xúc về ATTP được kiểm soát theo chuỗi chỉ đạt 30% tổng sản lượng sản phẩm nông lâm thủy sản chủ lực có mức độ rủi ro cao trong sản xuất, tiêu thụ tại địa phương. Trong đó, số lượng cửa hàng bày bán sản phẩm an toàn theo chuỗi tại địa phương còn thấp (hiện chỉ 6 điểm bán hàng), kết nối giữa cung và cầu chưa chặt chẽ.
Nguồn kinh phí còn hạn chế, chi phí phân tích mẫu cao nên giá thành sản phẩm chuỗi cung ứng thực phẩm cao, gây khó khăn cho việc tìm kiếm đầu ra sản phẩm. Trong khi đó, nhận thức về tầm quan trọng của chất lượng, ATTP nông lâm thủy sản của một số cơ sở chưa đúng mức, quy mô sản xuất, kinh doanh của các cơ sở còn nhỏ lẻ, chủ yếu là hộ gia đình.
Việc ứng dụng tem điện tử thông minh gắn mã QR vào sản phẩm, hỗ trợ truy cập phần mềm trên thiết bị thông minh chưa phổ biến rộng rãi với người sản xuất và người tiêu dùng trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã