Các đại biểu tham dự buổi lễ
Theo các tư liệu lịch sử, khảo sát thực địa, gia phả dòng họ Trần tại thôn Mật Thiết, xã Kim Lộc (nay là xã Kim Song Trường) không thấy ghi chép về năm sinh và năm mất của ông, chỉ ghi ngày mất của ông là ngày 03/12 (âm lịch). Ông sinh ra trong một gia đình danh giá và có nề nếp; từ thuở nhỏ đã nổi tiếng học giỏi, thông minh, tư chất hiền lành, hòa thuận với anh em, gia đình, xóm làng và bè bạn.
Chương trình văn nghệ chào mừng
Sau khi ra làm quan, ông được triều đình nhà Lê (vua Lê Anh Tông năm 1563) cử giữ chức Chưởng bạ tước Văn Lý tử, tự do ra vào nơi cung vua, phục vụ nhà vua tận tâm, tận lực, luôn đứng về lẽ phải, về đạo lý để cùng chung gánh vác phò vua giúp ích cho dân, cho nước.
Trong thời gian này, nhà Mạc đứng đầu là Mạc Đăng Dung đã khéo léo lợi dụng cuộc xung đột giữa các phe phái phong kiến, tìm cách diệt trừ các phe phái đối lập, đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân nhằm phế truất nhà Lê, Chúa Trịnh để lên nắm chính quyền. Lúc này, với danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, Trần Tịnh đã tỏ ra là một ông quan trung thành phò vua giúp dân, giúp nước thoát khỏi cảnh binh lửa tương tàn. Với công lao đó, đến đời vua Lê Thế Tông (1582) niên hiệu Quang Hưng năm thứ 5, ông được vinh thăng chức phụng sự, chế tại nội truyền mệnh, vì đã tỏ ra là người trung thành phò vua cứu chúa. Đến năm 1592, Chúa Trịnh thắng nhà Mạc và 2 năm sau (1594), niên hiệu Quang Hưng thứ 17, ông lại được gia phong chức đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, tham tri, tước Văn lý bá, vì đã có công đem quân giúp nước, tòng quân có công, chầu ở vương phủ, một lòng giữ tiết của kẻ bề tôi.
Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Võ Hồng Hải, lãnh đạo Sở VH-TT&DL và huyện Can Lộc trao bằng công nhận di tích cấp Quốc gia cho lãnh đạo địa phương và đại diện dòng họ
Trong thời gian chúa Trịnh lên nắm quyền bính, Trần Tịnh có công lao to lớn xông pha nơi trận mạc phò vua. Sau này đến đời vua Lê Kính Tông (1601), niên hiệu Hoằng Định thứ 2, xét công lao của ông trong buổi đầu khó khăn phò vua cứu chúa, ông lại được vinh phong làm chức Hiệp mưu tá lý công thần. Và 3 năm sau, niên hiệu Hoằng Định năm thứ 5 (1604) ông được vua phong chức Tổng thái giám, chưởng cung nội thừa chế sự, tước Văn Lý Hầu. Về hành trang và sự nghiệp của ông đã được ghi rõ trong tấm bia ký, một di vật quý hiếm còn lưu giữ tại nhà thờ của ông.
Sắc phong được lưu giữ tại Đền thờ Trần Tịnh
Văn Lý Hầu Trần Tịnh là một nhân vật lịch sử quan trọng trong quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Nhật Bản thế kỷ XVII. Năm 1610, ông được Chúa Trịnh cử giữ chức vụ An Nam quốc Nghệ An sở Tổng Thái giám Thượng giám sự Văn Lý Hầu. Đây là chức quan được triều đình cử vào xứ Nghệ An, nơi có cửa biển Hội Thống theo dõi các thuyền buôn với các nước như Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước khác vào làm ăn buôn bán với triều đình trong những năm 1607 - 1612.
Tấm bia cổ còn lưu trữ trong khuôn viên Đền thờ
Trải qua bao sự thăng trầm của chế độ phong kiến, Trần Tịnh làm quan trải qua 3 triều vua. Từ vua Lê Anh Tông (1556 - 1573), vua Lê Thế Tông (1573 - 1599), vua Lê Kính Tông (1599 - 1619), đã đóng góp cho đất nước trong bối cảnh xã hội phong kiến rối ren thời Lê - Trịnh thế kỷ 16, 17. Ông là một ông quan thanh liêm chính trực, đức độ, nhân nghĩa, giàu lòng nhân ái vị tha, thông minh và giàu dũng khí được Nhân dân yêu mến, kính trọng, quân sỹ cảm phục, bạn bè nể trọng, vua tôi tin tưởng, yêu mến.
Sau khi mất, để tưởng nhớ đến công lao và sự nghiệp giúp dân, cứu nước của ông, triều đình phong kiến nhà Lê - Trịnh đã gia phong ông chức Liêm quận công, tước Văn Lý Hầu.
Đông đảo con cháu dòng họ và Nhân dân địa phương rước bằng về Đền thờ
Với công lao to lớn đó, các triều đại phong kiến kế tiếp sau từ thời Lê đến thời Nguyễn đã phong ông vào hàng ngũ những công thần tiết nghĩa, ghi danh công trạng và địa vị của ông đối với quê hương, đất nước.
Lãnh đạo Sở VH-TT&DL và huyện Can Lộc dâng hương tại Đền thờ Trần Tịnh
Hiện nay, tại di tích Đền thờ Quận công Trần Tịnh còn lưu giữ được tấm văn bia thời Lê cổ quý hiếm, có niên đại năm Hoằng Định thứ 17, triều vua Lê Kính Tông (1616). Đây là tấm bia cổ nhất còn lại ở Hà Tĩnh. Ngoài văn bia cổ, tại đây còn lưu giữ 3 đạo sắc phong cổ thời Lê và thời Nguyễn ghi danh công trạng của ông đối với quê hương, đất nước.
Đền thờ ông toạ lạc trên một khuôn viên cao, rộng, thoáng với diện tích 2.880m2, xung quanh được bao bọc bởi làng mạc dân cư đông đúc, trù phú. Di tích có hệ thống tam quan, tắc môn, tường bao, nhà hạ điện, thượng điện, nhà bia và phần mộ của ông.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã