Phụ thuộc lớn vào nhập khẩu
Việt Nam vốn là một quốc gia nông nghiệp, nhưng mỗi năm vẫn phải chi tới 3 tỷ USD nhập khẩu thức ăn chăn nuôi (TĂCN) và nguyên liệu để sản xuất sản phẩm này. Nghịch lý này tồn tại đã nhiều năm. Trong năm 2018, ước tính 70% tổng nguồn nguyên liệu thô làm TĂCN, bao gồm TĂCN công nghiệp, là từ nguồn nhập khẩu.
Nguồn nguyên liệu vẫn phụ thuộc nhập khẩu |
Số liệu thống kê Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, trong tháng 6 nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu đạt 372 triệu USD, tăng 12,96% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung, trong 6 tháng đầu năm 2018 Việt Nam đã chi gần 2 tỷ USD nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước đó.
Giữ quan điểm nhập khẩu thay vì tự sản xuất, ông Nguyễn Xuân Dương - Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho hay, Việt Nam không có thế mạnh trồng đậu tương, mỗi năm Việt Nam chỉ sản xuất được 150.000 tấn đỗ tương, không đủ đáp ứng nhu cầu làm thực phẩm cho con người tiêu dùng trong nước. Đối với ngô, Việt Nam đang phải nhập khoảng 50% để làm nguyên liệu, bởi sản xuất trong nước khoảng 3 triệu tấn không đủ dùng. “Chúng ta không nhất thiết phải tiếp tục mở rộng diện tích trồng ngô, trong khi ngô của nước khác giá rẻ hơn rất nhiều”, ông Nguyễn Xuân Dương nói. Theo ông, nước ta nên dành quỹ đất để trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế hơn như cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu, những loại cây này cho giá trị cao hơn.
Trong khi đó, TS. Đặng Kim Sơn - chuyên gia nông nghiệp lại cho rằng, giá trị của ngành chăn nuôi không cao do phụ thuộc lớn vào thức ăn nhập khẩu. Hiện nay, người chăn nuôi chỉ lấy công làm lãi, phần lợi nhuận gần như rơi vào tay các DN nhập khẩu và chế biến TĂCN, chủ yếu là DN có vốn đầu tư nước ngoài. Thực trạng này khiến một số vùng sản xuất TĂCN của Việt Nam không phát triển được vì năng suất cây trồng kém, người dân không tham gia được vào chuỗi cung ứng TĂCN cho DN.
Chưa có dấu hiệu cho thấy tình trạng nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu sẽ thay đổi. Thậm chí, Bộ Công thương trong dự báo mới nhất đã khẳng định nhu cầu nhập khẩu TĂCN sẽ tiếp tục tăng mạnh, khả năng chi nhập khẩu có thể lên tới 3,8 - 3,9 tỷ USD vào cuối năm nay.
Một khảo sát của Cơ quan thường trú Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA Post) cũng chỉ rõ, các nguồn cung nguyên liệu nội địa của Việt Nam cho TĂCN bao gồm cám gạo và gạo tấm, từ ngành gạo nội địa. Gạo tấm sử dụng làm TĂCN tương đối nhỏ, chỉ khoảng 0,5 triệu tấn do hoạt động xuất khẩu gạo mạnh. Sử dụng sắn trong TĂCN đang giảm, từ 800.000 tấn năm 2017 xuống còn 500.000 tấn năm 2018 và 2019 do sản xuất không phát triển và nhu cầu sắn cho xuất khẩu, sản xuất công nghiệp và sản xuất nhiên liệu sinh học ở mức cao...
Vì vậy không có nhiều ngạc nhiên trong dự báo của USDA Post cho năm 2019, với 76% tổng lượng nguyên liệu thô của Việt Nam sẽ đến từ nhập khẩu do ngành TĂCN tiếp tục tăng trưởng tốt. USDA Post cũng ước tính ngành TĂCN Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 3% trong năm 2018 và 2019.
Khó soán ngôi
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, nếu như năm 2010 sản lượng thức ăn gia súc, gia cầm công nghiệp chỉ đạt hơn 10 triệu tấn, thì đến năm 2018 đạt trên 23 triệu tấn. Dựa trên sự phát triển của thị trường TĂCN trong nước có thể thấy, tiềm năng của thị trường TĂCN Việt Nam được đánh giá khá màu mỡ, thế nhưng ưu thế trên thị trường hiện nay đang nghiêng hẳn về các DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Số liệu của Cục Chăn nuôi cho hay, cả nước hiện có khoảng 218 DN ngoại - nội sản xuất thức ăn chăn nuôi với công suất khoảng 28.200 tấn/năm; trong đó, có 71 DN FDI và 147 DN Việt. Công suất sản xuất của DN Việt khoảng 12.465 tấn/năm, còn DN FDI có công suất trên 15.700 tấn/năm; chiếm 60 - 65% tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi sản xuất ra.
Trên thực tế, các DN FDI không ngừng chủ động phát triển hoạt động sản xuất với tham vọng chiếm lĩnh thị trường TĂCN. Đáng chú ý, từ đầu năm 2018 đến nay, hàng loạt các nhà máy sản xuất TĂCN đã được khánh thành. Mới đây, Tập đoàn Mavin (liên doanh giữa Australia và Việt Nam) vừa chính thức khánh thành Nhà máy TĂCN Mavin Austfeed Đồng Tháp với tổng mức đầu tư 30 triệu USD. Đây là nhà máy thứ 5 của Tập đoàn Mavin trên toàn quốc.
Với mong muốn “lội ngược dòng” để giành lại thị phần, một loạt các “ông lớn” trong nước như Massan, Hòa Phát, Hùng Vương, Vingroup đang đầu tư lớn vào ngành sản xuất TĂCN. Tuy nhiên, việc giành lại thị phần không dễ. Ông Phạm Đức Bình - Phó Chủ tịch Hiệp hội TĂCN Việt Nam cho biết, DN FDI đang nắm ưu thế quá lớn do đã gia nhập thị trường Việt Nam cách đây 10 - 25 năm, cộng thêm những ưu thế vượt trội về vốn đầu tư, sản phẩm công nghệ hiện đại, chiến lược xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường bài bản.
Việc mở rộng quy mô của các DN FDI này bên cạnh mặt lợi là đưa ngành sản xuất chăn nuôi phát triển, nhưng cũng chứa những rủi ro như có nguy cơ bị thao túng, đẩy giá cao hơn thực tế.
Để hạn chế tối đa sự độc quyền của các DN FDI trên thị trường TĂCN, tạo ra sự cạnh tranh về giá. Nhiều chuyên gia khuyến cáo Nhà nước cần có quy hoạch cho vùng nguyên liệu, đồng thời có những chính sách ưu đãi cho DN nội vay vốn đầu tư tạo vùng nguyên liệu, từ đó, thu hút ngày càng nhiều hơn các DN trong nước vào đầu tư, nghiên cứu, sản xuất TĂCN. Về phía các DN sản xuất TĂCN trong nước, cần chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất và chiến lược phát triển thị trường hợp lý để chủ động nguồn nguyên liệu.
Thế nhưng, trong sản xuất thực hiện nay, chi phí TĂCN chiếm từ 65-70% giá thành. Do đó, thị trường sẽ dẫn dắt sản xuất. Ông Trần Văn Nhạ - hộ nuôi heo ở Thanh Miện, Hải Dương cho hay, mỗi giai đoạn nuôi sẽ sử dụng một loại thức ăn phù hợp.
Tuy nhiên, các loại TĂCN mà ông tin dùng nhất đều đến từ các thương hiệu nước ngoài như: CP, Cargall… một phần là do đại lý tiếp thị và có chương trình hậu mãi tốt, cạnh đó là do chất lượng ổn định. Thực tế này phản ánh bản chất thị trường, cả phần sản xuất, nơi mà các DN FDI đang chiếm ưu thế, cũng như phần nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu.
Hải Yến/http://thoibaonganhang.vn/