Với khoảng 70% dân số sống ở khu vực nông nghiệp nông thôn, song ngành sản xuất nông nghiệp (NN) đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong bối cảnh Việt Nam hội nhập và tham gia vào nhiều Hiệp định thương mại tự do quy mô khu vực và song phương. Giá trị gia tăng của sản phẩm NN Việt Nam chưa cao, khả năng cạnh tranh bị hạn chế và thu nhập của người nông dân ngày càng khó khăn. Những bất cập nêu trên đòi hỏi phải có sự điều chỉnh chính sách đối với lĩnh vực NN để phù hợp với tình hình.
Vậy đâu là nút thắt trong chính sách phát triển NN và giải pháp nào tạo bước đột phá cho ngành này? Dưới đây là một số ý kiến nhận định, gợi ý chính sách xoay quanh vấn đề này.
NHNN đang chủ động cùng các bộ liên quan xây dựng chương trình cho vay mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
ThS. Nguyễn Văn Tiến, Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp - nông thôn Ban Kinh tế Trung ương:
Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước
Hiện nay, Việt Nam có 29 khu NN ứng dụng công nghệ cao đã đi vào hoạt động, làm tiền đề cho việc phát triển các vùng NN ứng dụng công nghệ cao khác. Điển hình như: mô hình sản xuất rau an toàn, trồng hoa, cây cảnh tại TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Lâm Đồng; sản xuất nấm quy mô trang trại tại Vĩnh Phúc; vùng trồng chè theo công nghệ trồng, chế biến chè của Đài Loan ở Thái Nguyên, Lâm Đồng…
Tuy nhiên, hoạt động của các khu NN công nghệ cao còn rất hạn chế do đầu tư chưa đồng bộ, tập trung; cơ chế hỗ trợ, thu hút DN còn thiếu hấp dẫn, tính cạnh tranh của sản phẩm chưa cao. Việc lựa chọn mô hình, sản phẩm, công nghệ để áp dụng vào sản xuất chưa phù hợp; chi phí đầu tư, vận hành quá cao dẫn đến sản xuất không hiệu quả. Đơn cử, một số khu NN ứng dụng công nghệ cao ở Hà Nội, Hải Phòng được đầu tư hàng chục tỷ đồng để nhập công nghệ trọn gói của nước ngoài, nhưng chưa thành công.
Theo tôi, phát triển NN công nghệ cao cần có sự liên kết chặt chẽ giữa 5 nhà: Nhà nước, nhà khoa học, nhà DN, nhà tư vấn và nhà nông. Trong đó, sự năng động, sáng tạo của DN đóng vai trò trung tâm của phát triển NN công nghệ cao. Song, để phát triển công nghệ cao trong NN bền vững, hiệu quả hơn cần có nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước như tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước để phát triển khoa học và công nghệ trong NN; Xây dựng sản phẩm NN chủ lực của quốc gia, những sản phẩm có tiềm năng như: gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, thịt lợn, sữa, lâm sản… Trên cơ sở đó, xây dựng chương trình, kế hoạch đầu tư về khoa học và công nghệ trong chọn, tạo giống, tổ chức sản xuất, xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta cần hình thành các khu NN công nghệ cao hoạt động có hiệu quả tại những vùng NN trọng điểm.
Một vấn đề cấp thiết nữa là phải có chính sách khuyến khích sản xuất nông sản hàng hoá tập trung quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao phục vụ xuất khẩu cùng với ưu đãi về tín dụng cho các tổ chức khoa học và công nghệ vay để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Tôi cho rằng, nên huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư để hỗ trợ, tạo điều kiện để các DN, các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, hoàn thiện và chuyển giao công nghệ mới phục vụ sản xuất NN và phát triển nông thôn.
Ông Nguyễn Viết Mạnh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN):
Các ngành tích cực vào cuộc
Để tạo ra những liên kết rộng lớn, đòi hỏi quy mô cơ sở vật chất và vốn đầu tư ban đầu rất lớn để hỗ trợ người nông dân, như hệ thống sấy tập trung, kho chứa đúng quy cách, mua giống và vật tư NN để ứng trước cho nông dân, nông dân sẽ trả nợ DN khi thu hoạch, bán sản phẩm cho DN. Doanh số hoạt động kinh doanh của mô hình liên kết rất lớn, nhưng sở hữu tài sản của DN lại phân tán, thiếu cơ sở pháp lý. Vì vậy, vấn đề thế chấp tài sản của DN để vay vốn NH còn gặp nhiều khó khăn. Chưa kể, mô hình cánh đồng mẫu lớn được nói đến thời gian qua hầu như mới chỉ tập trung vào mặt hàng lúa gạo xuất khẩu.
Vì vậy, NHNN đang phối hợp với Bộ NN & PTNT, Bộ KH&CN khảo sát, nghiên cứu và xây dựng chính sách thí điểm cho vay hỗ trợ trong mô hình liên kết, nhằm giảm chi phí đầu vào cho sản phẩm có mô hình sản xuất liên kết thông qua giảm lãi suất cho vay. NH cũng cho vay tín chấp nếu nông dân và DN ký kết hợp đồng liên kết có cơ sở pháp lý và NH kiểm soát được dòng tiền tham gia vào quá trình liên kết...
Ví dụ, NH cho DN vay để mua giống vật tư NN ứng cho nông dân theo hợp đồng liên kết. Khi nông dân bán sản phẩm cho DN thì NH sẽ thu nợ. Dự kiến, khoảng 20 mô hình liên kết giữa DN với hộ nông dân như mô hình cánh đồng lớn, mô hình liên kết theo chuỗi giá trị của sản phẩm, các DN ứng dụng công nghệ cao... sẽ được lựa chọn để thí điểm chương trình tín dụng này với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực trong NN như: lúa gạo, thủy sản, chăn nuôi, sản xuất rau màu...
Tuy nhiên, để chương trình thí điểm có thể thành công, theo tôi, phải có sự hỗ trợ đồng bộ từ các chính sách khác như chính sách về bảo hiểm các sản phẩm NN; vấn đề về quy hoạch; chính sách về đất đai, dồn điền đổi thửa... Và, yếu tố quan trọng không thể thiếu là sự vào cuộc của chính quyền các cấp trong quản lý quy hoạch, quản lý thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN và các mô hình liên kết trong NN phát triển.
Chiến lược chính sách phát triển NN, nông thôn phải được xây dựng trong dài hạn để cơ cấu lại nền kinh tế NN
TS. Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ:
Thay đổi thể chế tạo động lực cho nông nghiệp phát triển
Tôi cho rằng, có ba vấn đề chính tạo động lực cho NN phát triển là thể chế, đầu tư và phát triển thị trường.
Thể chế cho NN phát triển bao gồm: chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân, bảo hiểm trong NN, đất đai và định đoạt giá cả. Thể chế giúp nông dân có thể tiếp cận nhiều hơn với nguồn vốn giá rẻ. Hay như các biện pháp trợ cấp cần được xem xét một cách cẩn thận bởi nguồn lực của ngân sách và tác động dài hạn có thể làm xơ cứng năng lực cạnh tranh. Việc trợ cấp chỉ thực hiện trong chừng mực nhằm giảm tổn thương cho người nông dân do tác động bởi chu kỳ kinh tế, lúc lạm phát tăng vọt.
Giải pháp tốt hơn, theo quan điểm của tôi, là nên đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thông tin và dự báo tốt cho người nông dân. Với mức đầu tư như hiện tại, tôi nghĩ rằng, Việt Nam chỉ có thể xuất khẩu sản phẩm thô, nhập khẩu sản phẩm tinh chế. NN đã cung cấp phần giá trị ròng xuất khẩu khá cao, nhưng càng gia tăng kim ngạch xuất khẩu, càng tiến vào thị trường các nước có nhu cầu khắt khe thì giá trị ròng giảm dần. Trong khi đó, nhu cầu và đòi hỏi chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng trong nước gia tăng cũng làm gia tăng nhập khẩu nông phẩm từ nước ngoài.
Một vấn đề quan trọng nữa là phát triển thị trường cho sản phẩm NN. Đây là công việc lớn không chỉ của các nhà kinh doanh mà phải từ người sản xuất, bất kể đó là nhà máy chế biến, DN hay nông hộ. Nhà nước tạo ra thể chế chính sách phát triển thị trường chứ không phải là người tiêu thụ hàng hóa, cũng không phải là nhà cứu trợ thường xuyên khi có trục trặc giữa cung - cầu.
TS. Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế:
Phá vỡ “vòng kim cô”
Những năm gần đây đã xuất hiện một số mô hình mới trong liên kết sản xuất NN như mô hình liên kết 4 nhà, cánh đồng mẫu lớn... nhằm nâng cao quy mô và chất lượng tín dụng cho vay nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng là một yếu tố tác động quan trọng, thậm chí đóng vai trò then chốt trong vận hành các mô hình này.
Tuy nhiên, do những hạn chế phương thức sản xuất NN của Việt Nam hiện nay gắn với cái “vòng kim cô” là thu nhập thấp, nghèo, thiếu tài sản có giá trị để thế chấp cầm cố vay vốn NH... nên vẫn còn khoảng cách tương đối lớn giữa chính sách và thực tế. Chính vì vậy, một mặt cần tiếp tục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc nhằm tăng cường quy mô tín dụng cho tam nông, mặt khác cần đi đôi phối hợp nguồn vốn tín dụng với các nguồn lực tài chính đa dạng khác để tạo bước đột phá trong chuyển đổi mô hình, gắn sản xuất lớn với công nghệ cao, tăng năng suất và hiệu quả của sản xuất NN.
Mặt khác, chúng ta cần cơ cấu lại tín dụng phù hợp với mô hình sản xuất lớn, với những liên kết kinh tế mới, những chuỗi liên kết khép kín từ cung cấp đầu vào, sản xuất NN đến tiêu thụ sản phẩm, gắn với giá trị gia tăng trong từng khâu của chuỗi giá trị nông sản bằng hàm lượng khoa học công nghệ. Theo đó, cả cơ cấu cũng như chính sách và cơ chế tín dụng cho tam nông cần thay đổi, mức độ ưu đãi tương ứng phù hợp với từng đối tượng trong mô hình sản xuất lớn và chuỗi liên kết sản xuất NN để đảm bảo cho vay đúng đối tượng, vừa tránh chồng chéo, trùng lắp, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng và quản lý tốt rủi ro tín dụng.
Bên cạnh chính sách tín dụng, tôi cho rằng cần phải có chiến lược chính sách phát triển NN, nông thôn dài hạn để cơ cấu lại nền kinh tế NN, cũng như cơ cấu lao động... Chừng nào chúng ta chưa phá được cái “vòng kim cô” đó thì NN, nông thôn cũng như các hộ nông dân Việt Nam khó có thể phát triển được và khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, giữa NN với công nghiệp và dịch vụ càng khó có thể thu hẹp.
Ứng dụng công nghệ cao tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp Ngày 15/5/2014, tại Hà Nội, Báo Nhân Dân phối hợp với NHNN, Bộ NN&PTNT, Hiệp hội Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao (ATE) tổ chức Hội thảo “Giải pháp phát triển mô hình sản xuất NN quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao”. Hội thảo là cơ hội để các chuyên gia, các DN, các cơ quan quản lý và các đại biểu bàn thảo và đề xuất các giải pháp để phát triển các mô hình sản xuất NN có quy mô lớn, tăng cường liên kết và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất tại Việt Nam. Được biết, NHNN đang chủ trì phối hợp với Bộ NN&PTNT, Bộ KH&CN triển khai xây dựng chương trình thí điểm cho vay đối với các mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao và phục vụ xuất khẩu đối với các sản phẩm NN với nhiều chính sách đặc thù để hỗ trợ các mô hình này phát triển. |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã