Giai đoạn 2016-2020, tổng sản lượng thủy sản bình quân hàng năm đạt trên 46.600 tấn, trong đó: Sản lượng năm 2020 ước đạt 50.000 tấn tăng 29,3% so với năm 2016 (là năm xảy ra sự số môi trường biển). Giá trị bình quân đạt 2.041 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân hàng năm về sản lượng 7,3%/năm; tăng trưởng về giá trị đạt 18,3%/năm; giá trị các sản phẩm hàng hóa chủ lực (tôm, hải sản có giá trị kinh tế) tăng hàng năm.
Phát triển các vùng nuôi thủy sản thâm canh ứng dụng công nghệ cao, tăng năng suất/diện tích nuôi.
Đẩy mạnh áp dụng nuôi trồng thủy sản theo hướng VietGAP gắn bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp với yêu cầu của thị trường. Chuyển dịch sang các đối tượng nuôi có giá trị cao và xuất khẩu. Diện tích nuôi tôm được mở rộng các tổ chức, cá nhân đã mạnh dạn đầu tư, chuyển đổi diện tích đất cát hoang hóa ven biển đưa vào nuôi tôm, chuyển đổi từ nuôi quảng canh sang thâm canh công nghệ cao, tăng số vụ nuôi/năm. Năng suất nuôi trồng thuỷ sản bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 1,84 tấn/ha (tăng 0,34 tấn/ha so với năm 2015). Trong đó: Năng suất tôm nuôi đạt 1,59 tấn/ha (tăng 0,39 tấn/ha so với năm 2015); năng suất nuôi nhuyễn thể đạt 7,79 tấn/ha (tăng 0,49 tấn/ha so với năm 2015); năng suất nuôi nước ngọt đạt 1,53 tấn/ha (tăng 0,23 tấn/ha so với năm 2015). Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng đáng kể hàng năm: Giai đoạn 2016 - 2020 sản lượng bình quân hàng năm đạt 13.985 tấn. Năm 2020, sản lượng nuôi ước đạt 15.000 tấn, tăng trên 1.500 tấn với năm 2015, thu nhập bình quân/01 ha nuôi trồng (theo giá so sánh) đạt 94,3 triệu đồng tăng 16,1 triệu đồng/ha so với năm 2015.
Thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu về sản phẩm chủ lực (tôm nuôi)
Trong giai đoạn 2016 - 2020,đã thực hiện chuyển đổi thành công hàng trăm ha đất cát hoang hóa ven biển sang nuôi tôm công nghệ cao trên cát, cho năng suất vượt trội, năng suất đạt 10 - 20 tấn/ha/vụ, cá biệt có nơi có vụ đạt 45 tấn/ha, lợi nhuận 0,5 - 1,5 tỷ đồng/ha/năm (được Bộ Nông nghiệp đánh giá cao, năm 2017 Hà Tĩnh đã được Bộ chọn làm điểm tổ chức hội thảo toàn quốc về phát triển nuôi tôm trên cát bền vững); chuyển đổi có hiệu quả nuôi tôm ao đất vùng triều từ nuôi quảng canh sang nuôi thâm canh đạt năng suất 5 - 10 tấn/ha, tăng năng suất 5 -10 lần với hình thức nuôi quảng canh. Thu hút đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả 01 dự án sản xuất giống tôm thẻ chân trắng trên địa bàn, trong 5 năm đã cho sinh sản và ương dưỡng đạt trên 2,7 tỷ con giống, năm 2020 ước đạt 380 triệu con, tăng 141 triệu con so với năm 2015; công tác kiểm tra kiểm soát con giống đưa vào sản xuất được chú trọng, tăng cường. Đến năm 2020, diện tích nuôi tôm ước đạt 2.750 ha tăng 590 ha so với năm 2015. Diện tích nuôi tôm thâm canh, công nghệ cao năm 2020 đạt 950 ha (trong đó: nuôi tôm trên cát đạt 450 ha, nuôi tôm thâm canh ao đất 500 ha) tăng 120 ha với năm 2015. Đã đầu tư xây dựng, nâng cấp 9 vùng nuôi tôm an toàn sinh học theo hướng VietGAP, vùng nuôi tập trung và vùng đa dạng hóa nuôi trồng thủy sản với quy mô 250ha. Việc ứng dụng các khoa học kỹ thuật, quy trình sản xuất tiên tiến như: nuôi tôm theo quy trình VietGAP, quy trình nuôi và sản xuất giống tôm sử dụng các chế phẩm sinh học, nuôi tôm trên cát công nghệ cao...đã khai thác tốt tiềm năng đất hoang hoá ven biển đã tạo được sản phẩm nông nghiệp hàng hoá chủ lực quy mô lớn, đã có những doanh nghiệp, HTX nuôi tôm trên cát đạt 100 - 800 tấn/năm; quy trình kỹ thuật nuôi tôm trong ao đất lót bạt, vỗ bờ bằng vôi và bột đá... đã hạn chế được dịch bệnh và cho hiệu quả kinh tế cao. Xây dựng thành công 16 mô hình nuôi tôm an toàn sinh học, theo hướng VietGAP và 10 mô hình nuôi trồng thủy sản đa dạng hóa nuôi trồng thủy sản. Sự thành công của các mô hình góp phần thay đổi tư duy trong sản xuất của bà con nông ngư dân, phát triển nuôi trồng thủy sản một cách bền vững và tạo sản phẩm có tính canh tranh cao trên thị trường.
Khai thác thủy sản phát triển, chuyển dịch tích cực từ khai thác ven bờ sang khai thác xa bờ
Cơ cấu và năng lực tàu thuyền chuyển theo hướng giảm số tàu có công suất dưới 30CV, tăng tàu có công suất từ 90CV trở lên. Sản xuất khai thác thủy sản ngày càng khẳng định được vai trò trong việc tạo sinh kế cho ngư dân, tạo sản phẩm hàng hóa lớn có giá trị xuất khẩu và góp phần giữ vững an ninh trật tự chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Sản lượng khai thác thủy sản, năm 2016 đạt 26.160 tấn, trị giá 728 tỷ đồng; năm 2019, đạt 36.669 tấn, trị giá 1.408 tỷ đồng. năm 2020, ước sản lượng đạt 35.000 tấn, ước trị giá 1.633 tỷ đồng. Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thủy sản đạt nhiều kết quả: Ứng dụng thành công mô hình chụp mực 4 tăng gông, mô hình lồng bẫy, Rê khơi, Câu khơi, hầm bảo quản sản phẩm bằng vật liệu Polyurethane. Các dự án hạ tầng nghề cá ngày càng được đầu tư hoàn thiện, 02 cảng cá (cảng cửa Hội và cảng cửa Sót), khu neo đậu tránh trú bão cửa Nhượng, cửa Sót đã hoàn thiện đưa vào hoạt động..
Thực hiện có hiệu quả tái cơ cấulĩnh vực khai thác thủy sản
Sản lượng khai thác tăng về cả sản lượng và giá trị, ngư dân đầu tư nâng cấp tàu cá, hoạt động các nghề có tính chọn lọc cao như nghề rê, câu, lồng bẫy, chụp mực khai thác các loài hải sản có giá trị cao như mực, cá thu, cá cam, ghẹ; tỷ trọng các loại có giá trị kinh tế cao chiếm trên 25% tổng sản lượng. Xu hướng chuyển đổi cơ cấu đội tàu ngày càng rõ nét, từ năm 2016 đến nay tăng 30 tàu cá có công suất từ 90 cv/chiếc trở lên, tăng 324 chiếc so với năm 2010. Năm 2020, toàn tỉnh có 3.708 tàu cá, trong đó có 386 tàu cá công suất từ 90CV trở lên; theo Luật Thủy sản 2017, có 141 tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên hoạt động vùng khơi. Ưng dụng khoa học công nghệ đẩy mạnh khai thác xa bờ, sản lượng khai thác xa bờ năm 2020 ước đạt 11.000/31.000 tấn hải sản (chiếm 35,48%); toàn tỉnh có 30 tàu cá làm nghề chụp mực, 20 tàu cá sử dụng hầm bảo quản PU, 200 tàu làm nghề lồng bẫy, 10 tàu làm nghề rê khơi, 100 tàu làm nghề câu khơi; 50 tàu cá có trang bị giám sát hành trình, 55 tàu cá có trang bị máy thông tin liên lạc tầm xa (VX 1700). Hầu hết tàu cá hoạt động vùng lộng và vùng khơi có trang bị định vị, thông tin liên lạc tầm trung. Áp dung có hiệu quả công nghệ bảo quản sản phẩm để nâng cao chất lượng sản phẩm như: Bảo quản bằng nước đá, thông thủy, sử dụng hầm bảo quản PU, hầm bảo quản có bọc cách nhiệt nên giá trị sản phẩm sau thu hoạch có giá trị cao và giảm được tổn thất sản phẩm sau khai thác. Đẩy mạnh phát triển các mô hình sản xuất: Toàn tỉnh thành lập được 67 tổ đội khai thác hải sản với 413 tàu cá, 02 nghiệp đoàn nghề cá với sự tham gia trên 400 tàu cá làm nghề câu, rê vùng khơi, vùng lộng tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, 15 Tổ Đồng quản lý nghề cá ven bờ với 1.717 tàu cá tham gia…
Phát huy kết quả đạt được, phát huy lợi thế trong giai 2020 - 2025 lĩnh vực thủy sản tiếp tục định hướng phát triển sản xuất theo hướng “Khai thác, sử dụng tối đa tiềm năng lợi thế và các nguồn lực để phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản; phát triển sản xuất thủy sản theo hướng công nghiệp, có sức cạnh tranh cao và bền vững, góp phần chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh tế chung của tỉnh; chuyển dần từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao giá trị gia tăng, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông ngư dân. Gắn khai thác thủy sản với bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc”./.
Sỹ Công - Chi cục Thủy sản Hà Tĩnh/http://sonongnghiep.hatinh.gov.vn/
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã