Học tập đạo đức HCM

Đệ nhất đặc sản biển: Cá... song chuột trên đất Việt, giá bạc triệu

Thứ ba - 29/07/2014 20:40
Tại thị trường trong nước, cá song chuột không những là loài cá làm thực phẩm có giá trị đặc biệt cao (khoảng 1-1,2 triệu đồng/kg) mà còn được rất ưa chuộng để làm cảnh.

Sở dĩ “chết danh” với cái tên khá kỳ cục: song chuột bởi loài cá này có cái đầu khi nhìn nghiêng rất giống mặt chuột. Tại thị trường Hồng Kông giá cao nhất (thời kỳ chỉ mới có cá tự nhiên 1999-2000) được bán 110-120 USD/kg.

Khi Indonesia chủ động được cá giống và phát triển nuôi, giá cá song chuột có giảm đi nhưng vẫn đứng ở mức cao từ 60-90USD/kg.

Tại thị trường trong nước, cá song chuột không những là loài cá làm thực phẩm có giá trị đặc biệt cao (khoảng 1-1,2 triệu đồng/kg) mà còn được rất ưa chuộng để làm cảnh.



Cá song chuột 

Do vây bên, vây lưng xòe to ra như cái nan quạt, cá song chuột đẹp một cách hào nhoáng với nhiều chấm đen, chấm trắng mềm mại điểm xuyết trên thân. Thêm một lý do nữa để cho song chuột được giới chơi cá cảnh ưa chuộng là bởi nó chậm lớn, rất phù hợp nuôi trong bể kính.

Các nước Ả Rập rất ưa thích loại cá này nên 60% cá giống của Indonesia xuất bán ra nước ngoài là làm cá cảnh và chủ yếu xuất đi các nước Ả Rập với giá cá hương (3cm) từ 2,0-2,5USD/con.

Trên thế giới đến tận năm 2010 mới chỉ có Indonesia chủ động sản xuất giống cá song chuột trên qui mô lớn nhờ sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Năm 1999 lần đầu tiên Indonesia cho sinh sản nhân tạo cá song chuột thành công.

Sau 3 năm tiếp tục nghiên cứu, năm 2002, Indonesia đã sản xuất 617.800 con với tỷ lệ sống 0,1-0,2%. Cuối năm 2003, công nghệ sản xuất giống cá song chuột của Indonesia đã khá ổn định: Tỷ lệ sống dao động từ 3- 20%, có mẻ đạt tới 40% cá 40 ngày tuổi. Tiếp theo Indonesia là Malaysia và Australia đã thành công trong việc nhân giống song chuột.

Về nuôi thương phẩm, trên thế giới mới có công bố kết quả thí nghiệm nuôi đến khối lượng 234g/con (chưa đạt cá thương phẩm), chưa có công trình nghiên cứu nào công bố về nuôi đến cỡ cá thương phẩm (400 g/con).

Đến ngay cả Trung tâm Phát triển nghề cá Đông Nam Á và NACA xuất bản cuốn “Sổ tay kỹ thuật nuôi cá song chuột” cũng giới thiệu sơ lược và chưa có chỉ tiêu cụ thể... Như vậy, sau hơn 10 năm nghiên cứu, chỉ có Indonesia đã thành công trong sản xuất giống và nuôi cá song chuột trên qui mô hàng hóa.

Tuy nhiên, Indonesia vẫn giữ bí mật về công nghệ nuôi thương phẩm. Với một số nước khác như Thái Lan, Australia đã có những nghiên cứu thành công ban đầu về sản xuất giống nhưng công nghệ vẫn chưa ổn định.



Tại Việt Nam, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I hiện là đơn vị duy nhất có công nghệ sản xuất giống và nuôi cá song chuột với dự án của Nguyễn Đức Tuấn "Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá song chuột”.

Thời gian đầu, các thí nghiệm chỉ đạt tỷ lệ sống dao động từ 0,2-7,5%, nhiều đợt không thu được cá hương, tỷ lệ sống bằng không, cá bột yếu, chết ngay sau 2 ngày tuổi.

Dần dà với những nghiên cứu chuyên sâu hơn, chúng ta đã khắc phục được các hạn chế trên, sản xuất được tới 14-15 vạn con giống. Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam là nước thứ 2 sau Indonesia thành công về sinh sản nhân tạo cá song chuột trên qui mô khá lớn.

 

Tuy thế, việc nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi thương phẩm cá song chuột hiện nay mới thu được những kết quả bước đầu. Trong các thí nghiệm, cá giống (5-10g) được nuôi giữ trên bể cho đến khi đạt trọng lượng trung bình từ 23-25 g có thời gian 5,5 tháng (vì thời gian nuôi trùng vào những tháng mùa đông ở miền Bắc nên cá chậm lớn).

Dịch bệnh giai đoạn này thường xảy ra làm giảm tỷ lệ sống, đồng thời ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của cá nuôi thương phẩm và làm giá thành tăng cao. Cá nuôi đến trọng lượng trung bình mất thêm khoảng thời gian 16-18 tháng.

Như vậy toàn bộ chu kỳ nuôi kéo dài khoảng 24-27 tháng (miền Bắc) và 20-24 tháng (miền Trung và Nam) để đạt được kích cỡ cá song chuột thương phẩm trên 500g. Tốc độ lớn của chúng quả thực chậm không ngoài dự kiến.

Theo danviet.vn

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Văn bản ban hành

Văn bản số 4414/UBND-NL5

Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới

Văn bản số 4305/UBND-NL5

Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố

Quyết định số 15/2024/QĐ-UBND

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh

Công văn số 3608/UBND-NL5

Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã

Quyết định số 211/QĐ-TTg

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM, Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025;

Hát về nông thôn mới
MÃ QR CODE ZALO-BỘ NỘI VỤ Bộ nông nghiệp Cổng thông tin Đảng bộ hà tĩnh Công báo tỉnh Điều hành tỉnh Dự thảo văn bản văn bản Nhật ký truyền thanh
Thăm dò ý kiến

Theo bạn thực hiện Chương trình OCOP nên phát triển theo hướng nào:

Thống kê
  • Đang truy cập168
  • Máy chủ tìm kiếm4
  • Khách viếng thăm164
  • Hôm nay53,615
  • Tháng hiện tại268,325
  • Tổng lượt truy cập87,623,395
®VĂN PHÒNG ĐIỀU PHỐI CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Trưởng ban biên tập:  Nguyễn Văn Việt - Chánh Văn phòng 
Phó trưởng ban biên tâp: Ngô Ðình Long - Phó Chánh Văn phòng
Địa chỉ: 148 - Đường Trần Phú - Thành Phố Hà Tĩnh
Điện thoại: 02393.892.689;  Email: nongthonmoitinhhatinh@gmail.com
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây