Luật Lâm nghiệp sẽ tác động đến 16,2 triệu hecta đất rừng
Cán bộ kiểm lâm huyện Sông Lô (Vĩnh Phúc) kiểm tra chất lượng rừng.
Tại kỳ họp thứ IV, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Lâm nghiệp thay thế cho Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (BVPTR) 2004. Xung quanh sự kiện này, Thứ trưởng Thường trực Bộ Nông nghiệp và PTNT Hà Công Tuấn đánh giá: Việc Quốc hội thông qua Luật Lâm nghiệp lần này thể hiện sự quan tâm của Quốc hội tới công tác bảo vệ, phát triển rừng bền vững. Luật Lâm nghiệp được thông qua lập tức có tác động tới 16,2 triệu ha rừng, tạo niềm tin cho nhân dân được giao rừng, bảo vệ rừng.
Điểm mới trong Luật là, đổi mới việc thu Quỹ dịch vụ môi trường rừng. Những năm qua, Quỹ đã liên tục được tăng lên, nếu năm 2016 mới thu được 1.350 tỷ đồng, thì đến năm 2017 này dự tính thu được 1.600 tỷ đồng và mục tiêu của năm 2018 là thu 2.000 tỷ đồng. Điều này tạo niềm tin cho thị trường, giúp có thêm kinh phí để chi trả cho các hộ dân được giao khoán, bảo vệ rừng.
Theo ông Tuấn, luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh theo hướng liên kết theo chuỗi các hoạt động lâm nghiệp nhằm tạo ra rừng, sản xuất và cung ứng lâm sản đáp ứng cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, đảm bảo chế biến và xuất khẩu lâm sản có trách nhiệm. Quy định như vậy đã thể hiện rõ lâm nghiệp là ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù, gồm tất cả các hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ liên quan đến rừng.
Một trong những điểm mới của luật, quy định: Chuyển hướng khai thác lợi ích từ rừng sang sản phẩm phi gỗ - dịch vụ môi trường rừng. Theo ông Tuấn, “dịch vụ môi trường rừng” là loại hình sản phẩm phi lâm sản do rừng mang lại cho các nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống con người, trong cơ chế thị trường nhất là yêu cầu phát triển bền vững hiện nay các dịch vụ này được lượng hóa giá trị hàng hóa được trao đổi mua bán trên thị trường.
Tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng phải chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho người đã tạo ra dịch vụ, tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng được chuyển vào quỹ bảo vệ và phát triển rừng và được phân phối cho những người tham gia trực tiếp bảo vệ và phát triển rừng. Đây cũng là điểm mới tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc chuyển hướng khai thác lợi ích tiềm năng của rừng, từ sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ sang sản phẩm phi gỗ, tạo nguồn tài chính bền vững để đầu tư trực tiếp vào rừng.
Phó thủ tướng Vương Đình Huệ vừa chỉ đạo các bộ ngành, địa phương liên quan đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp để hoàn thành đúng mục tiêu đề ra.
Để hoàn thành các mục tiêu năm 2017 hoàn thành việc điều chỉnh phương án tổng thể và kế hoạch về sắp xếp, đổi mới công ty nông, lâm nghiệp; năm 2018, hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp trên phạm vi cả nước; năm 2019, thực hiện kiểm toán trên phạm vi cả nước về công tác sắp xếp, đổi mới công ty nông, lâm nghiệp, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và PTNT kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp theo quy định, kịp thời đề xuất tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện theo chuyên đề: Đất đai, cổ phần hóa, chuyển thành công ty TNHH hai thành viên trở lên, xử lý tồn tại về tài chính.
Phó thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và PTNT trong quý IV năm 2017 hoàn thành thẩm định điều chỉnh phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp của các địa phương (nếu có); chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan và Tổng công ty Cà phê Việt Nam rà soát, đánh giá kỹ lại Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới Tổng công ty Cà phê Việt Nam, bảo đảm quá trình thực hiện không gây mất ổn định về an ninh, trật tự trên địa bàn; nghiên cứu có biện pháp, bước đi phù hợp với tình hình thực tế để thực hiện thành công việc sắp xếp, đổi mới Tổng công ty Cà phê Việt Nam; trường hợp cần điều chỉnh Phương án, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Bộ Tài nguyên và Môi trường kiểm tra, hướng dẫn và chỉ đạo tổ chức thực hiện việc rà soát, đo đạc, phê duyệt phương án sử dụng đất, lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký hợp đồng thuê đất cho các doanh nghiệp; Bộ Tài chính xem xét, hướng dẫn các địa phương về cơ chế chính sách khi sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp; Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại quan tâm tiếp tục xử lý các khoản nợ vay cho các công ty nông, lâm nghiệp.
Phó thủ tướng cũng yêu cầu UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các bộ (có công ty nông, lâm nghiệp), Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước hoàn thành việc phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới công ty nông, lâm nghiệp của địa phương, điều chỉnh lại phương án tổng thể (nếu cần thiết) trong Quý IV năm 2017; cơ bản hoàn thành việc sắp xếp công ty nông, lâm nghiệp trong năm 2018.
Kiên Giang quy hoạch phát triển rừng bền vững
Trồng rừng ngập mặn ở Kiên Giang.
Sở Nông nghiệp và PTNT Kiên Giang đang rà soát, điều chỉnh quy hoạch ba loại rừng giai đoạn đến năm 2025 nhằm phát triển rừng bền vững.
Ông Hoàng Văn Tuấn, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Kiên Giang, cho biết, tổng diện tích đất quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh đến thời điểm năm 2016 là 86.140ha. Trong đó, diện tích đất đai có cấp phòng hộ rất xung yếu là 44.747ha, xung yếu 18.729ha, còn lại là ít xung yếu.
Diện tích rừng và đất lâm nghiệp thuộc các cấp phòng hộ rất xung yếu và xung yếu của tỉnh chiếm đến gần 74% diện tích đất lâm nghiệp. Diện tích cấp phòng hộ rất xung yếu tập trung ở các huyện An Biên, An Minh, Kiên Hải, Kiên Lương và Phú Quốc, trong đó cao nhất là ở Phú Quốc, chiếm tới gần 82% diện tích cấp phòng hộ rất xung yếu toàn tỉnh.
Diện tích cấp phòng hộ rất xung yếu tập trung cao nhất ở VQG Phú Quốc và Rừng phòng hộ Phú Quốc (khu vực phòng hộ đầu nguồn); Ban Quản lý rừng Hòn Đất - Kiên Hà (khu vực phòng hộ đầu nguồn và phòng hộ ven biển); Ban Quản lý rừng An Biên - An Minh (khu vực phòng hộ ven biển)”, ông Tuấn đánh giá.
Theo kết quả cập nhật hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Kiên Giang đến thời điểm rà soát, điều chỉnh 3 loại rừng, gồm: diện tích đất có rừng là 61.090ha (diện tích rừng tự nhiên là 46.315ha, rừng trồng 14.775ha); 25.050ha đất chưa có rừng (trong đó có 5.347ha đất trống có cây gỗ tái sinh).
Theo ông Tuấn, tổng diện tích đất lâm nghiệp tiến hành rà soát, điều chỉnh lần này là 86.140ha. Còn tổng diện tích đất quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp của tỉnh Kiên Giang đến năm 2025 là 79.861ha.
Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp của tỉnh Kiên Giang phân theo ba loại rừng như sau: Rừng đặc dụng là 39.467ha (chiếm 45,8%), rừng phòng hộ 33.402ha (chiếm 38,8%) và rừng sản xuất 13.271ha (chiếm 15,4%). Nếu so với thời điểm hiện nay, diện tích quy hoạch ba loại rừng của giai đoạn đến năm 2025 giảm 6.279ha. Trong đó, diện tích rừng đặc dụng ổn định, giữ nguyên là 39.467 ha, gồm điện tích VQG Phú Quốc, VQG U Minh Thượng, khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Chông và khu bảo tồn loài - sinh cảnh Phú Mỹ. Diện tích đất rừng phòng hộ được rà soát, điều chỉnh đưa ra khỏi mục đích ba loại rừng là 2.180ha và rừng sản xuất giảm 4.176ha.
Phát huy hiệu quả kinh phí chi trả dịch vụ môi trường rừng
Dịch vụ môi trường rừng phát huy hiệu quả ở Thường Xuân.
Để giúp người dân các xã thuộc huyện Thường Xuân (Thanh Hoá) sử dụng hiệu quả hơn nguồn tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), trong hơn 1 năm qua, dự án "Rừng & đồng bằng Việt Nam" đã phối hợp với Quỹ Bảo vệ, phát triển rừng và phòng chống thiên tai tỉnh Thanh Hoá xây dựng thí điểm cơ chế chia sẻ lợi ích trong quản lý và sử dụng tiền DVMTR.
Nằm trong lưu vực của nhà máy thuỷ điện Cửa Đạt, hai xã Yên Nhân và Bát Mọt, đã nhận được nguồn tiền chi trả DVMTR từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn tiền này chưa phát huy hiệu quả như mục tiêu của chính sách đề ra là nhằm cải thiện chất lượng DVMTR và cải thiện sinh kế cho người dân bảo vệ rừng.
Nguyên nhân là do số tiền DVMTR của cộng đồng được chia đều cho các hộ, trung bình chỉ từ 100.000 - 250.000 đồng/hộ/năm. Với số tiền ít ỏi như vậy thì người dân chỉ có thể sử dụng vào mục đích tiêu dùng cho nhu cầu của gia đình, không thể đầu tư phát triển sinh kế.
Theo chị Đặng Thuý Nga, cán bộ của dự án, với mục tiêu nhằm tư vấn, giúp người dân xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích minh bạch và khuyến khích tái đầu tư cho các nhóm hộ, cộng đồng thôn bản nhận tiền chi trả DVMTR, dự án đã hướng dẫn người dân của 5 thôn thuộc hai xã Yên Nhân và Bát Mọt xây dựng và vận hành quy chế thôn bản về sử dụng tiền chi trả DVMTR.
Tuỳ vào điều kiện thực tế và nhu cầu thì mỗi thôn tham gia thí điểm tổ chức họp và tự bàn bạc, thống nhất quy chế sử dụng tiền DVMTR theo tỷ lệ trích lập và được UBND xã phê duyệt. Tiền trích lập được chia vào 3 quỹ: Quỹ tuần tra, bảo vệ rừng; quỹ sử dụng chung và quỹ tín dụng vi mô do Hội Phụ nữ tự quản. Việc chi tiêu từ các quỹ của thôn đều có kế hoạch và do người dân tham gia thảo luận, quyết định, được ghi chép vào sổ theo dõi, có chứng từ chứng minh và báo cáo tài chính công khai 2 năm/lần cho toàn dân.
Từ việc trích lập quỹ tuần tra, bảo vệ rừng các thôn đã có nguồn tiền chi trả cho các chi phí, thù lao cho thành viên Tổ Bảo lâm. Tiền công tuần tra, bảo vệ rừng sẽ được chi trả dựa trên ngày công được chấm và đơn giá ngày công đi tuần tra rừng từ 150.000 đến 200.000 đồng/ngày và 250.000 đến 300.000 đồng/ngày đêm.
Bên cạnh đó, quỹ cũng trích 3% trên tổng số tiền chi trả cho các tổ viên để trả công cho Tổ trưởng và Tổ phó của Tổ Bảo lâm có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tuần tra bảo vệ, huy động, giám sát các thành viên tham gia bảo vệ rừng. Với ít nhất 6 lượt tuần tra/tháng bằng máy định vị GPS và đều có biên bản kiểm tra an ninh rừng, tổ bảo vệ rừng đã phối hợp chặt chẽ với kiểm lâm địa bàn trong việc tuần tra, bảo vệ rừng.
Theo lãnh đạo Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, nhờ có quy chế rõ ràng và được trả công xứng đáng nên việc quản lý, bảo vệ diện tích rừng đặc dụng phòng hộ giao khoán cho người dân được thực hiện rất tốt. Cùng với đó, thông qua các cuộc họp định kỳ của các quỹ, địa phương đã kết hợp tuyên truyền về quản lý, bảo vệ rừng đến các hộ gia đình và cộng đồng.
Khánh Nguyên (tổng hợp)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã