Cả nước hiện có khoảng 13 triệu ha đất canh tác nông nghiệp và khoảng 7.000 loại phân bón khác nhau đang được lưu thông. Ảnh minh họa |
Lý do chính dẫn đến nghịch lý trên là vì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT nên phân bón không được khấu trừ thuế GTGT của nguyên vật liệu, dịch vụ dùng trong sản xuất. Từ đó, chi phí sản xuất phân bón tăng lên, DN buộc phải tính phần thuế GTGT không được khấu trừ này vào chi phí giá thành sản phẩm, khiến người nông dân vẫn phải mua phân bón nội địa với giá cao. Không ít nông dân đã chuyển qua dùng phân bón nhập khẩu do giá cả cạnh tranh hơn.
Hạn chế sản xuất trong nước, tăng chi ngoại tệ
Sau khi Luật 71 có hiệu lực, mặc dù các nhà máy sản xuất phân bón trong nước có thể đáp ứng đủ nhu cầu phân urê, lân, NPK và hướng tới xuất khẩu một số sản phẩm, song từ năm 2015 đến nay, mỗi năm nước ta vẫn nhập khẩu khoảng trên 4 triệu tấn phân bón, trị giá khoảng 1,33 tỷ USD.
Có thể thấy, chi phí giá thành phân bón trong nước tăng, dẫn đến bất lợi cho các DN sản xuất phân bón trong nước khi cạnh tranh thị trường với phân bón nhập khẩu. Phân bón nhập khẩu đang hưởng lợi nhiều nhất bởi không phải chịu thuế GTGT, giá bán giảm 5%. Trong khi theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của các nước, thuế suất xuất khẩu phân bón là 0%, sản phẩm phân bón được khấu trừ toàn bộ thuế GTGT cho nguyên vật liệu, dịch vụ sản xuất. Ngoài ra, hầu hết các nước này còn có chi phí nguyên liệu sản xuất phân bón rất thấp. Do vậy, phân bón nhập khẩu càng có lợi thế cạnh tranh về giá thành và giá bán, dẫn đến nhập khẩu phân bón tăng, còn sản xuất phân bón trong nước lại phải thu hẹp quy mô sản xuất.
Số liệu của Bộ NN&PTNT cho thấy, năm 2018, cả nước nhập khẩu hơn 600.000 tấn ure, với kim ngạch gần 70 triệu USD, chủ yếu từ Nga và Trung Quốc. 9 tháng đầu năm 2019, lượng đạm nhập khẩu về tiếp tục tăng 2 con số. Trong khi đó, Đạm Cà Mau và Đạm Phú Mỹ, 2 DN lớn nắm 70% thị phần phân đạm trong nước lại phải đối mặt với thách thức thiếu khí và giá khí tăng cao. Sản phẩm phân bón chất lượng bị thu hẹp càng tạo điều kiện cho hàng giả, hàng lậu kém chất lượng chiếm lĩnh thị trường.
Theo Bộ Công Thương, trung bình mỗi năm lực lượng quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 3.000 vụ liên quan đến phân bón lậu, phân bón giả. Hàng lậu có giá thấp hơn hàng chính ngạch từ 1-2 triệu đồng/tấn, khi đến tay người dân thấp hơn thị trường khoảng 500-1.000 đồng/kg, nên dễ thu hút bà con nông dân. Mặt khác, do nhận thức của người dân nhiều nơi, đặc biệt là nông dân vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, cộng với tâm lý ham rẻ nên dễ mua phải phân bón giả, phân bón nhái, phân bón kém chất lượng.
Cả nước hiện có khoảng 13 triệu ha đất canh tác nông nghiệp và khoảng 7.000 loại phân bón khác nhau đang được lưu thông. Tuy nhiên, việc quản lý phân bón vẫn còn bất cập và kẽ hở để các đối tượng nhập lậu đưa phân bón kém chất lượng tới ruộng đồng của nông dân. Tác động tiêu cực của phân bón giả, phân bón kém chất lượng sẽ gây suy kiệt sức sống của cây trồng dẫn đến giảm năng suất. Cây yếu sẽ bị sâu bệnh tấn công nhiều hơn, làm tăng thêm chi phí cho phòng và trị sâu bệnh hại, gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế và chất lượng nông sản.
Theo phân tích của ông Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội, khi sản phẩm phân bón bán ra không được trừ thuế GTGT thì DN không được trừ thuế GTGT đầu vào, vì vậy DN buộc phải cộng thêm toàn bộ giá trị thuế GTGT này vào giá thành sản xuất. Còn các DN nhập khẩu phân bón từ nước ngoài vào thì không phải chịu thuế GTGT đầu vào. Vô hình trung, chính sách này đang tạo ra “hỗ trợ” cho nhập khẩu từ nước ngoài mà không hỗ trợ cho DN sản xuất phân bón trong nước.
Song, nếu đánh thuế GTGT với phân bón thì lập tức phân bón ngoại nhập cũng phải chịu thuế GTGT. Và ngân sách Nhà nước ngay khi nhập lượng phân bón vào biên giới là đã thu được một khoản từ thuế đó. Thuế GTGT làm cho giá phân bón cao lên, tuy nhiên cũng làm cho năng lực cạnh tranh của DN trong nước được nâng theo.
Không khuyến khích đầu tư công nghệ mới
Có thể khẳng định, chính sách miễn thuế GTGT cho phân bón tưởng như có lợi, nhưng thực chất lại làm cho DN sản xuất phân bón chịu thêm nhiều sức ép và hoàn toàn không có tác dụng khuyến khích đầu tư công nghệ mới trong sản xuất, có nguy cơ đẩy ngành sản xuất phân bón Việt Nam “đi thụt lùi”, ngược xu thế, từ những DN sản xuất phân bón có công nghệ hiện đại dần dần thành các DN có công nghệ sản xuất phân bón lạc hậu. Nhiều DN sản xuất phân bón buộc phải giảm công suất, giảm sản lượng và thiệt hại nhiều tỷ đồng vì không được khấu trừ, hoàn thuế. Ngoài ra, chính sách này còn gián tiếp làm giảm đóng góp thuế GTGT của DN phân bón, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách quốc gia.
Thậm chí, về dài hạn, nếu không có sự thay đổi về chính sách thuế dành cho phân bón, các DN trong nước còn phải đối mặt với nguy cơ thay đổi chiến lược kinh doanh sang lĩnh vực khác, nhường thị phần lại cho các sản phẩm phân bón ngoại nhập giá rẻ, kém chất lượng. Hệ quả cuối cùng là sản phẩm nông nghiệp và môi trường sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi nếu đầu vào là các loại phân bón có chất lượng thấp, nông sản đầu ra và môi trường cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đây chính là nguy cơ lớn nhất cho ngành nông nghiệp và xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Thay đổi chính sách là cấp thiết
Theo một nghiên cứu của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), cùng với các yếu tố về giống, thủy lợi, cơ giới hóa nông nghiệp… phân bón đóng góp tới trên 40% cho việc nâng cao năng suất cây trồng.
Các DN sản xuất, kinh doanh phân bón trong nước rất cần sự hỗ trợ về cơ chế chính sách, mà đúng hơn đó là sự cạnh tranh công bằng giữa sản phẩm phân bón nhập khẩu và phân bón sản xuất trong nước. Bởi lẽ về lâu dài, sự lệ thuộc vào phân bón nhập khẩu không thể bảo đảm phát triển nền nông nghiệp bền vững, gây ảnh hưởng đến mối quan hệ công nghiệp-nông nghiệp-nông dân và nông thôn. Việt Nam cần xây dựng các chủ trương, quy định, giải pháp nhằm tăng cường sản xuất trong nước, giảm bớt nhập khẩu sẽ tiết kiệm được rất nhiều ngoại tệ cho đất nước.
Chính vì vậy, chính sách thuế phân bón rất cần có sự thay đổi để phù hợp với tình hình và đúng với định hướng chiến lược phát triển ngành phân bón của Chính phủ. Sự thay đổi này còn là yếu tố tạo điều kiện cho DN phát triển các sản phẩm có chất lượng tốt, tính năng đặc thù dựa trên việc sử dụng công nghệ cao, tạo đòn bẩy cho sự tăng trưởng phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương nói riêng và của phát triển kinh tế-xã hội của cả nước nói chung.
Linh Đan/chinhphu.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã