Mức tăng không những vượt quá sức chịu đựng của người nông dân, mà kéo theo nguy cơ làm đứt gãy chuỗi sản xuất và cung ứng.
Giải pháp nào “hạ nhiệt” giá phân bón, giá TĂCN và đâu là chiến lược phát triển hai lĩnh vực quan trọng này?
Khó khăn “bủa vây” ngành TĂCN
Mặc dù là nước sản xuất và xuất khẩu lương thực top đầu thế giới, song ngành sản xuất TĂCN công nghiệp nước ta vẫn phải nhập khẩu 70 - 85% nguyên liệu từ nước ngoài và hàng năm đều tăng cả về lượng cũng như giá trị.
Mỗi năm, ngành Nông nghiệp chỉ có thể cung cấp tối đa 4,5 - 5 triệu tấn ngô hạt, 4 triệu tấn cám, 4 triệu tấn sắn làm TĂCN trong khi nhu cầu sản xuất lại cần tới 26 - 27 triệu tấn các loại.
Do đó, phần lớn nguyên liệu của ngành phụ thuộc vào việc nhập khẩu, đặc biệt là ngô. Trong 7 tháng qua, chúng ta đã chi gần 1,8 tỷ USD để nhập 6,4 triệu tấn ngô, tăng 11,5% về lượng, tăng 48% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.
Trước đà tăng giá chưa có hồi kết của TĂCN, Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam đã có công văn gửi cơ quan chức năng kiến nghị giảm 50% thuế nhập khẩu nguyên liệu TĂCN.
Ngoài ra, Ủy ban Ngũ cốc Hoa Kỳ cũng có văn bản kiến nghị giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu tối huệ quốc (MFN) đối với mặt hàng ngô và lúa mỳ xuống 0%. Tại cuộc họp cuối tháng 6/2021 với Bộ Tài chính, đại diện Đại sứ quán Hoa Kỳ cũng đề nghị giảm thuế nhập khẩu MFN đối với các mặt hàng này để giảm giá thành sản xuất TĂCN trong nước.
Bộ Tài chính đã trình Chính phủ xem xét điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của mặt hàng lúa mỳ, mã HS 1001.99.99 từ 3% xuống 0%; giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của mặt hàng ngô, mã HS 1005.90.90 từ 5% xuống 3% nhằm góp phần giảm giá đầu vào với ngành sản xuất TĂCN.
Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và PTNT) Tống Xuân Chinh cho biết, trong thời điểm khó khăn hiện nay, việc xem xét điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi như trên là giải pháp thiết thực nhất để hỗ trợ doanh nghiệp và ngành chăn nuôi trong nước.
Song các giải pháp này chưa thể ngay lập tức “hạ nhiệt” giá TĂCN. Trong các tháng còn lại của năm 2021, nhiều thách thức, khó khăn vẫn “bủa vây” ngành chăn nuôi và giá nguyên liệu sẽ còn duy trì ở mức cao.
Ngay cả khi thuế nhập khẩu các loại nguyên liệu ngô, lúa mỳ được giảm theo đề nghị của Bộ Tài chính cũng chưa phải là cơ sở để kéo giá TĂCN giảm nhanh, bởi đây chỉ là 2 trong các loại nguyên liệu đầu vào sản xuất của mặt hàng này.
Cần phải nói thêm rằng, nhóm nguyên liệu khác như đậu tương, dầu mỡ động - thực vật cũng đang phải nhập khẩu phần lớn. Năm 2020, nước ta nhập đậu tương với kim ngạch 674 triệu USD, tăng 14,8% so với năm 2019; nhập dầu mỡ động - thực vật với kim ngạch 734 triệu USD, tăng 24,9%; nhập thức ăn gia súc và nguyên liệu với kim ngạch 3,702 tỷ USD, tăng 3,7%...
Song song với biện pháp giảm thuế nhập khẩu, giải pháp được Cục Chăn nuôi khuyến cáo các doanh nghiệp trong giai đoạn này là cần chủ động tìm kiếm và tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước như khô dầu hạt điều, cám điều, bã sắn, cám gạo... nhằm thay thế nguồn nhập khẩu để chế biến TĂCN.
Chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu
Nhu cầu về nguyên liệu TĂCN vẫn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Theo dự báo của Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam, nhu cầu nguyên liệu TĂCN của Việt Nam cần khoảng 28- 30 triệu tấn/năm trong 5 năm tới, trị giá 12-13 tỷ USD với mức tăng trưởng trung bình 11-12%/năm, trong đó quá nửa sản lượng nguyên liệu TĂCN (14,5-15,0 triệu tấn) sẽ dành cho ngành gia cầm. Tuy nhiên, nguồn cung và giá nguyên liệu TĂCN trên thế giới rất khó dự đoán trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn biến rất phức tạp trên phạm vi toàn cầu, có thể tiếp tục làm đứt gãy chuỗi sản xuất và cung ứng.
Theo các chuyên gia, bên cạnh các giải pháp về chính sách thuế, thương mại, đã đến lúc Việt Nam cần có một chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu TĂCN trong nước một cách căn cơ, bài bản. Theo đó, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, mà một trong các giải pháp đó là phát triển các loại cây trồng ứng dụng công nghệ sinh học làm nguyên liệu TĂCN có năng suất và sản lượng cao nhằm bổ sung nguồn cung nguyên liệu TĂCN để đáp ứng được nhu cầu và hạ giá thành sản xuất trong nước.
Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam Trần Xuân Định cho biết, hiện tại, năng suất của các giống ngô lai truyền thống đã tới hạn, do đó, việc đưa vào sản xuất giống ngô biến đổi gen (BĐG) với năng suất cao và khả năng chống chịu tốt hơn, đồng thời mở rộng diện tích canh tác sẽ là giải pháp cơ bản để tăng sản lượng ngô sản xuất trong nước.
Báo cáo phát hành gần đây về “Tác động kinh tế - xã hội của ngô BĐG giai đoạn 2015 - 2019 tại Việt Nam” cho thấy, ngô BĐG đã giúp tăng năng suất thu hoạch thêm 30,4% (tương đương tăng thêm 2,03 tấn hạt tươi/ha hay 1,27 tấn hạt khô đã bỏ lõi/ha) so với các giống ngô lai truyền thống. Như vậy, nếu mở rộng diện tích gieo trồng các giống ngô này, tiềm năng bổ sung nguồn cung ngô hạt trong chuỗi TĂCN càng lớn.
“Bên cạnh đó, ngô BĐG cũng đang giúp nâng cao thu nhập ở cấp độ nông hộ 3,75-6,65 triệu đồng/ha. Đây là lợi ích đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, bởi giúp đảm bảo sinh kế cho nông dân, đẩy mạnh chuỗi cung ứng tại chỗ và đảm bảo an ninh lương thực đang là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ngô BĐG cũng cho thấy khả năng chống chịu nổi bật trước sự xuất hiện của những dịch bệnh mới, trên 90% đối với sâu keo mùa thu. Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và ứng dụng các giống mới năng suất cao và có khả năng thích ứng tốt với biến đổi khí hậu cũng đang là định hướng để nâng cao sản lượng và chất lượng ngô thu hoạch trên mỗi đơn vị canh tác”, ông Định nhấn mạnh.
Theo ông Trần Trọng Nghĩa, Trưởng đại diện Văn phòng Hội đồng ngũ cốc Hoa Kỳ tại Việt Nam, những nước đang cung cấp nguồn TĂCN trên thế giới bao gồm năng lượng (ngô) và protein (đậu tương) cũng là các quốc gia hàng đầu về canh tác và sản xuất cây trồng BĐG. Trên thị trường thế giới, không phân biệt đó là ngô được sản xuất từ giống thông thường hay giống BĐG, nếu được phân loại cùng phẩm cấp (thường dựa vào nước sản xuất, độ ẩm, tỷ trọng của hạt) thì sẽ được xem là như nhau trong quá trình vận chuyển, thương mại và sản xuất TĂCN. Hiện tại, ngô BĐG đang chiếm tỷ lệ lớn và đóng góp khoảng 75% nguồn cung trên toàn cầu. Báo cáo của AgroMonitor cũng chỉ ra, ngô là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nhập khẩu nguyên liệu TĂCN về cả khối lượng lẫn giá trị.
Để bổ sung nguồn cung TĂCN, theo bà Đinh Thị Thúy Phương (Tổng cục Thống kê), ngành chăn nuôi cần tận dụng nguồn nguyên liệu phụ phẩm trong nước như ngành thủy-hải sản, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm...
Doanh nghiệp sản xuất TĂCN cần tối đa hóa nguồn nguyên liệu trong nước và dần thay thế nguyên liệu nhập khẩu, từ đó giảm giá thành TĂCN.
Khó bình ổn giá phân bón?
Cả nước hiện có 841 nhà máy sản xuất phân bón, với công suất gần 30 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu sử dụng những năm gần đây chỉ trên 10 triệu tấn. Như vậy, công suất sản xuất đang gấp 3 lần so với nhu cầu. Vậy tại sao giá phân bón vẫn tăng với tốc độ “chóng mặt”?
Từ đầu năm 2021 đến nay, giá phân bón liên tục tăng. Cụ thể, phân urê Cà Mau tăng 72% (từ 6.800 đồng/kg lên 11.700 đồng/kg); DAP Đình Vũ tăng 67,3% (từ 8.550 đồng/kg lên 14.300 đồng/kg)...
Giá phân bón nhập khẩu cũng tăng không kém: DAP 64% nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 50% (từ 11.200 đồng/kg lên 16.800 đồng/kg); kali tăng 72,9% (kali miếng Israel tăng từ 6.650 đồng/kg lên 11.500 đồng/kg)...
Để bình ổn thị trường phân bón, ông Bùi Thế Chuyên, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, đề xuất: Trước mắt cần tập trung tháo gỡ vấn đề lưu thông, vận chuyển. Về lâu dài, cần giảm chi phí sản xuất, dù vẫn phải chấp nhận giá cao đối với một số nguyên liệu nhập khẩu đầu vào. Đặc biệt, cần bình ổn giá các mặt hàng nguyên liệu sẵn có trong nước như than cho sản xuất urê, amoniac cho sản xuất DAP…
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh, phân bón là mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, nhưng việc bình ổn sẽ rất khó khăn khi nguyên nhân tăng giá chủ yếu là do giá nguyên liệu tăng. Việc áp dụng các quy định hành chính vào thị trường khi Việt Nam đã có những cam kết quốc tế càng khó khả thi.
Hai bộ tập trung tháo gỡ điểm nghẽn
Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Công Thương đã cùng thống nhất một số giải pháp nhằm bình ổn giá phân bón, đảm bảo nguồn cung, giảm bớt khó khăn cho người nông dân.
Trước hết, khuyến cáo doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón tăng tối đa công suất đảm bảo nguồn cung phân bón ra thị trường, tránh tâm lý lo lắng thiếu hàng hóa của người nông dân, loại bỏ được tình trạng găm hàng đẩy giá.
Thứ hai, vận động các doanh nghiệp ưu tiên dành phân bón cho sản xuất nông nghiệp trong nước, hạn chế xuất khẩu.
Hai bộ cùng thống nhất có văn bản đề xuất giải pháp trình lên Chính phủ, trong đó tập trung vào giải pháp tăng thuế xuất khẩu để kiềm chế xuất khẩu phân bón, giảm thuế cho các doanh nghiệp phân bón và tháo gỡ các điểm nghẽn lưu thông vận chuyển để hạ giá thành, đồng thời kiểm tra gắt gao thị trường để ngăn chặn tình trạng đầu cơ trục lợi.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Trần Thanh Nam đặt câu hỏi: Giá vật tư nông nghiệp tăng cao có thật sự là chi phí sản xuất cao hay không? Phải chăng bắt đầu vào vụ mùa sản xuất, giãn cách xã hội, giao thông trắc trở thì tất cả cùng tăng giá?.
Ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, cho biết, qua thanh tra của ngành nông nghiệp và của lực lượng quản lý thị trường, đến nay chưa phát hiện trường hợp đầu cơ tích trữ phân bón để trục lợi. Giá phân bón tăng cao là do đứt gãy trong khâu vận chuyển từ cảng, lưu container, lưu kho, lưu bãi, vận chuyển giữa các tỉnh với nhau trong chuỗi cung ứng. Ngoài ra, chi phí lưu thông cũng tăng do lái xe phải thực hiện xét nghiệm phòng chống dịch Covid-19. Bộ Nông nghiệp và PTNT đề nghị các địa phương hướng dẫn người dân duy trì sản xuất theo hướng sử dụng phân bón tiết kiệm, thực hiện kỹ thuật “3 giảm, 3 tăng” để giảm chi phí các yếu tố vật tư đầu vào trong sản xuất nông nghiệp. |
Tổ công tác 970 của Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có công văn đề nghị UBND các tỉnh, thành phố phía Nam chỉ đạo Cục Quản lý thị trường tỉnh, Thanh tra Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp với các sở ban ngành đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất - nhập khẩu phân bón, TĂCN, thức ăn thủy sản, phụ gia thực phẩm.
TS. Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông (TTKN) Quốc gia cho biết: Thời gian qua, Trung tâm đã hỗ trợ xây dựng nhiều mô hình sản xuất sử dụng giống, phân bón tiết kiệm, mang lại hiệu quả cao. Thời gian tới, TTKN Quốc gia tiếp tục xây dựng và chuyển giao mô hình này cho nông dân. Ông Thanh khuyến cáo, để tiết kiệm chi phí, bà con nên áp dụng các biện pháp “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm” trong canh tác.
TS. Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho biết: Chi phí vật tư chiếm đến 63,6% giá thành, trong đó phân bón chiếm 25,6%, thuốc BVTV 23,6%, do vậy, giảm chi phí phân bón là rất quan trọng. TS. Thạch khuyến cáo: Giảm lượng giống sẽ giảm lượng phân bón và chỉ nên bón 3 lần trong một quá trình sản xuất lúa; bón thêm vôi với lượng 100-200kg/ha sẽ tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Và nên dùng giống xác nhận trong canh tác lúa.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã