Nông nghiệp hữu cơ cũng được xác định là một trong những hướng đi sắp tới của nền nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với việc thiếu quy hoạch, thiếu một tiêu chuẩn rõ ràng. Vậy làm thế nào để nền nông nghiệp hữu cơ Việt Nam cất cánh, hội nhập được với thế giới vẫn còn là câu hỏi lớn.
Thị trường lớn
Phá biểu tại Hội nghị Bàn giải pháp thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ diễn ra tại Hà Nội, ngày 4/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường cho rằng: Việt Nam với diện tích 10 triệu ha đất canh tác, hệ sinh thái đa dạng là một môi trường thuận tiện cho nông nghiệp hữu cơ. Ngoài ra, Việt Nam có dân số đông với trên 92 triệu người, lượng khách khách du lịch cũng đang tăng nhanh chóng, nên nhu cầu về sản phẩm hữu cơ là rất lớn. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với việc thiếu quy hoạch, thiếu một tiêu chuẩn rõ ràng.
Theo ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện chỉ có 30/63 tỉnh thành triển khai sản xuất nông nghiệp hữu cơ với 59 cơ sở sản xuất. Trong đó, Bến Tre có trên 3.000 ha trồng dừa, Ninh Thuận 448 ha trồng nho, táo, rau (riêng nho là 284 ha). Ngoài ra, còn có một số mô hình sản xuất rau hữu cơ ở Lương Sơn (Hòa Bình), Sóc Sơn (Hà Nội); Chè Bắc Hà (Lào Cai); Cam Hàm Yên (Tuyên Quang)…
Nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hữu cơ có sản phẩm đã được các tổ chức quốc tế chứng nhận và xuất khẩu thành công sang các thị trường EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc như: Công ty Viễn Phú sản xuất lúa gạo hữu cơ 220 ha, 2 vụ/năm, rau hữu cơ 50 ha/năm; Công ty Organic Đà Lạt sản xuất rau hữu cơ; Công ty Ecolink và công ty Hùng Cường xây dựng hệ thống công nhận quốc tế (ICS) dựa trên mạng lưới sản xuất nông hộ chè hữu cơ giống shan tuyết tại Bản Liền tỉnh Lào Cai (374ha); Hà Giang (645ha)…
Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng cho biết, hiện trong nước có 2 mô hình sản xuất sản phẩm hữu cơ là doanh nghiệp tư nhân và nhóm hộ nông dân. Doanh nghiệp tư nhân chủ yếu áp dụng các tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế (EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản) để sản xuất các sản phẩm phục vụ xuất khẩu và một phần tiêu thụ tại các thành phố lớn trong nước. Các nhóm hộ nông dân chủ yếu sản xuất hữu cơ theo tiêu chuẩn của Hệ thống đảm bảo sự tham gia (PGS) và tiêu thụ tại thị trường nội địa.
Còn lại, đa số nông dân chưa muốn chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ do quy trình sản xuất khắt khe, mất nhiều thời gian để cải tạo đất, chi phí sản xuất cao, thị trường không ổn định.
Một số sản phảm hữu cơ được trừng bày tại Hội nghị |
Sẽ hoàn thiện bộ tiêu chuẩn hữu cơ
Phát biểu tại hội nghị, ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, hiện trong nước có 2 trang trại chăn nuôi bò sữa hữu cơ quy mô lớn được Tổ chức Chứng nhận quốc tế Control Uni-on (Hà Lan) chứng nhận là: Trang trại bò sữa hữu cơ của Công ty Vinamilk với trang trại ban đầu tại tỉnh Lâm Đồng có tổng đàn 500 con bò sữa hữu cơ nhập từ Hoa Kỳ và Trang trại bò sữa hữu cơ của TH True Milk với tổng đàn bò sữa hữu cơ là 1.000 con, dự kiến đến năm 2018 là 3.000 con tại tỉnh Nghệ An. Các đơn vị này có thể đưa các sản phẩm ra thị trường gắn nhãn hữu cơ là dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế, chứ Việt Nam chưa có đơn vị nào cấp chứng nhận hữu cơ cho bất cứ sản phẩm nào.
Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia, các tổ chức chứng nhận và khung pháp lý đồng bộ cho sản xuất, chứng nhận và giám sát chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, lòng tin của người tiêu dùng chưa cao. Đây được coi là những nút thắt của nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
Trao đổi với phóng viên về nguyên nhân vì sao chưa có tiêu chuẩn Việt Nam cho sản phẩm hữu cơ, ông Nguyễn Nam Hải – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Đo lường Quản lý Chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, Bộ đã ban hành TCVN11041:2015 - Hướng dẫn sản xuất, chế biến, ghi nhãn và tiếp thị thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ, áp dụng cho sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi, chuyển đổi từ tiêu chuẩn CODEX CAC/GL 32-1999, sửa đổi năm 2013, đây là bộ tiêu chuẩn khung, là bộ tiêu chuẩn phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế.
Trong bộ tiêu chuẩn này đã có những hướng dẫn và nguyên tắc về sản xuất trồng trọt, chăn nuôi nhưng quá trình phổ biến tiêu chuẩn này vẫn còn hạn chế. Nội dung tiêu chuẩn này, ngôn ngữ còn quá khoa học, khiến người dùng khó tiếp cận. Trong thời gian tới, cơ quan quản lý sẽ hoàn thiện bộ tiêu chuẩn này để ngôn ngữ, văn phong dễ tiếp cận được với người dùng. Đồng thời, Bộ cũng sẽ phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đưa ra các tiêu chí và hướng dẫn tiêu chuẩn thực hành hữu cơ. Phát triển hệ thống chứng nhận quốc gia, minh bạch, không để mỗi người một phách như hiện nay.
Để thúc đẩy người dân tham gia sản xuất hữu cơ, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng, chúng ta phải quy hoạch và bảo vệ đất đai, nguồn nước chưa bị ô nhiễm, thích hợp cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Bên cạnh đó, Chính phủ cần ưu tiên chính sách về đất đai, tín dụng cho phát triển nông nghiệp hữu cơ, ban hành các chính sách đột phá thu hút đầu tư của xã hội trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ; Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn sản xuất, chế biến, chứng nhận chất lượng; Thường xuyên thanh tra, giám sát việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ, giúp người tiêu dùng an tâm khi sử dụng các sản phẩm hữu cơ đã được chứng nhận và đạt tiêu chuẩn.
Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất hữu cơ, phân bón hữu cơ, phân sinh học, vi sinh, chế phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, nâng cao năng lực của các tổ chức chứng nhận và đội ngũ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp theo hướng xã hội hóa.
Để tạo ra hành lang pháp lý cho nông nghiệp hữu cơ phát triển, ông Nam kiến nghị: “Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2018 -2025, xây dựng hành lang pháp lý để công nhận, chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, đảm bảo sự minh bạch trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Theo Xuân Thảo/baohaiquan.vn