Tốc độ tăng trưởng nhanh
Trong báo cáo Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam giai đoạn 2012 – 2014, TS.Tô Xuân Phúc (tổ chức Forest Trends) cho biết, ngành chế biến và XK dăm gỗ đạt được con số phát triển vô cùng ấn tượng trong khoảng một thập kỷ qua. Kể từ năm 2011, Việt Nam đã trở thành quốc gia có lượng dăm gỗ XK lớn nhất thế giới, năm 2014, kim ngạch XK dăm gỗ đạt 958 triệu USD với sản lượng 6,97 triệu tấn dăm khô, tương đương 13,9 triệu mét khối gỗ nguyên liệu. Hiện, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ dăm lớn nhất của Việt Nam.
Năm 2014, kim ngạch XK dăm gỗ đạt gần 1 tỷ USD.
Cả nước hiện có 130 cơ sở chế biến XK dăm đang vận hành, tăng 16% so với con số 112 nhà máy năm 2012. Với tổng công suất thiết kế của các nhà máy trên 8 triệu tấn dăm khô/năm, các nhà máy hoạt động hết công suất sẽ đòi hỏi lượng gỗ nguyên liệu đầu vào tương đương trên 16 triệu mét khối, hầu hết từ nguồn rừng trồng. Tuy nhiên, sự phát triển quá nóng của ngành dăm trong khi ngành chế biến gỗ đang thiếu trầm trọng nguyên liệu đầu vào, phụ thuộc vào nhập khẩu đang nảy sinh những mâu thuẫn khi các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ cho rằng, sự phát triển của ngành dăm tạo ra sự thiếu hụt nguyên liệu đầu vào cho chế biến. Thêm vào đó, XK dăm thực chất là hình thức xuất khẩu nguyên liệu thô, không tạo được giá trị gia tăng trong sản phẩm, không nâng cao giá trị thu nhập từ trồng rừng vì chu kỳ khai thác chỉ từ 5 - 6 năm, trong khi nếu kéo dài chu kỳ lên 10 - 12 năm có thể cung cấp gỗ lớn cho chế biến.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngành dăm cho rằng, hiện nay nhiều hộ gia đình không có đủ các điều kiện cần thiết để trồng rừng gỗ lớn do thiếu vốn đầu tư, họ luôn phải chịu sức ép khai thác rừng trồng sớm để trang trải cho cuộc sống và tái đầu tư trồng rừng. Vì vậy, việc phát triển ngành dăm còn góp phần thúc đẩy nghề trồng rừng phát triển, từ đó nâng cao độ che phủ rừng.
Có nên đánh thuế?
Thông tin trái chiều giữa các ngành đặt các nhà quản lý vào những khó khăn nhất định trong việc xác định ưu tiên phát triển cho các ngành có sử dụng nguồn gỗ rừng trồng làm nguyên liệu đầu vào. Đây chính là lý do khiến ngành dăm gỗ không được ưu tiên phát triển, được thể hiện rõ trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia đến năm 2020 và Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp với mục tiêu điều chỉnh cơ cấu sản phẩm gỗ, nhất là các sản phẩm XK theo hướng tăng tỷ trọng giá trị lâm sản sử dụng nguồn nguyên liệu được gây trồng trong nước, hạn chế tối đa XK sản phẩm thô (bao gồm cả dăm gỗ). Tháng 2/2015, Bộ Nông nghiệp và PTNT ra quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014 - 2020, trong đó nhấn mạnh: rà soát, sắp xếp các cơ sở sản xuất dăm gỗ gắn với vùng nguyên liệu nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả trong sản xuất dăm. Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng kiến nghị tăng thuế XK dăm gỗ và giảm thuế XK đối với sản phẩm gỗ tinh chế XK.
Ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho rằng, việc đánh thuế XK dăm gỗ là cần thiết nhưng phải nhắm vào đối tượng các doanh nghiệp vì hiện nay, lợi nhuận chủ yếu rơi vào tay nhà sản xuất và thương lái thu mua gỗ nguyên liệu.
Tuy nhiên, ông Võ Đình Tuyên, Vụ Quản lý ngành (Văn phòng Chính phủ), cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam đã và sắp ký hàng loạt các hiệp định thương mại, việc sử dụng chính sách thuế đối với doanh nghiệp là không phù hợp, đi ngược với xu thế phát triển chung.
TS.Tô Xuân Phúc cũng bày tỏ quan ngại, nếu Chính phủ áp dụng thuế XK dăm gỗ, thay vì tự mình chịu đựng, các doanh nghiệp sẽ chuyển toàn bộ chi phí có liên quan đến thuế vào giá mua nguyên liệu đầu vào. Kết quả là các hộ gia đình cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy dăm là nhóm đối tượng phải chịu thuế chứ không phải doanh nghiệp. “Nếu điều này xảy ra, tác động tiêu cực của việc áp dụng thuế XK dăm là rất lớn bởi hàng trăm nghìn hộ gia đình miền núi, bao gồm nhiều hộ nghèo, hiện cung cấp nguyên liệu cho ngành dăm phải gánh chịu mức thuế này”, ông Phúc nói.
Đồng tình với quan điểm này, ông Lê Công Cẩn, Giám đốc Công ty TNHH Cát Phú (Bà Rịa - Vũng Tàu), doanh nghiệp chuyên sản xuất dăm gỗ XK, băn khoăn: “Vì sao phải đặt ra phương án quản lý chặt chẽ, phải hạn chế, đánh thuế xuất khẩu, áp thuế giá trị gia tăng và tăng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với ngành dăm gỗ mà thực chất là những người trồng rừng phải gánh chịu, đồng thời nó cũng đi ngược với xu thế hội nhập quốc tế và các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã và sắp ký kết?”.
Ông Cẩn phân tích, trong cơ cấu giá thành hiện nay của ngành dăm gỗ, chi phí cho nguyên liệu chiếm khoảng 50%, còn lại dành cho khai thác, vận chuyển, sản xuất, quản lý và XK.Nếu đánh thuế XK dăm gỗ và các chính sách thuế khác thì các khoản này chỉ có thể hạch toán vào giá nguyên liệu và có hai khả năng xảy ra hoặc là tăng giá bán cho chế biến gỗ hoặc giảm giá trị thu nhập của người trồng rừng.
Cần có đánh giá khách quan
Cũng theo ông Cẩn, sự phát triển của ngành dăm gỗ đã góp phần làm thay đổi diện mạo của khu vực nông thôn, miền núi, giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho hàng vạn lao động nông nhàn, nâng cao độ che phủ rừng. Theo thống kê, trong năm 2014, với khối lượng xuất khẩu khoảng 6,96 triệu tấn khô đem lại cho ngành vận tải 4.200 tỷ đồng doanh thu; cung ứng khoảng 200 triệu cây con và 150.000ha rừng trồng mới, tương đương doanh thu 2.500 tỷ đồng; sản lượng hàng hóa qua cảng là 14 triệu tấn, tổng doanh thu bốc xếp đạt khoảng 560 tỷ đồng. Giá xuất khẩu dăm gỗ cũng tăng mạnh, từ 60 USD/tấn khô những năm đầu mới XK hiện đã đạt 142 USD/tấn khô, năng suất trồng rừng từ 30 tấn/ha nay tăng lên 100 tấn/ha, giá trị rừng trồng từ 15 triệu đồng/ha tăng lên 100 triệu đồng/ha, thậm chí tại những vùng thâm canh tốt có thể đạt 160 triệu đồng/ha.
“Nhiều người đang gán cho ngành dăm gỗ một thứ tội là XK nguyên liệu thô, làm cạn kiệt tài nguyên, nguồn lợi quốc gia. Nhưng trong khi nhiều cánh rừng đang bị xâm hại và cạn kiệt thì ngành dăm gỗ đã góp phần phát triển những cánh rừng trồng mới thông qua việc tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Tuy là xuất khẩu nguyên liệu thô nhưng nó được trồng trên những vùng đất xa xôi, cằn cỗi và được tái tạo liên tục. Giá trị rừng khi thu hoạch hiện nay đang thỏa mãn lợi ích cho người trồng rừng, do đó mọi nguồn lực đất đai còn hoang hóa hoặc không thể trồng cây khác có giá trị cao hơn đều được sử dụng trồng rừng nguyên liệu”, ông Cẩn nói.
Trên cơ sở đó, ông Cẩn kiến nghị, các chính sách mới ban hành phải tiếp tục thúc đẩy ngành trồng rừng nguyên liệu phát triển theo hướng tăng diện tích, tăng năng suất và tăng giá trị. Tiếp tục duy trì sự phát triển của ngành dăm gỗ trong đó có sự phát triển của ngành trồng rừng. Dùng nhân tố ổn định này để có chính sách khuyến khích đầu tư chế biến sâu, mang lại hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Trong báo cáo, TS.Tô Xuân Phúc cũng đưa ra những đề xuất: Trước khi áp dụng thuế XK dăm cần phải có đánh giá chi tiết và khách quan về thực trạng của ngành, đặc biệt về nguồn cung nguyên liệu và động lực đầu tư sản xuất gỗ rừng trồng của hộ gia đình. Bên cạnh đó, cần có nghiên cứu sát thực về mối quan hệ tương tác giữa ngành dăm và các ngành khác có sử dụng nguồn nguyên liệu từ rừng trồng, từ đó giúp cho việc hình thành các chính sách, bao gồm cả chính sách thuế được ban hành và áp dụng hiệu quả hơn.
Anh Thơ
nguồn: kinhtenongthon.com.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới năm 2024
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã