>> “Tinh thần Saemaul”
>> Phát triển nông thôn - Từ điểm nhìn Hàn Quốc: Phong trào Saemaul Undong
>> Làng Saemaul
Các nước nghèo trong giai đoạn phát triển ban đầu phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trong điều kiện ngân sách Chính phủ eo hẹp, phải ưu tiên cho nhiều nhu cầu khác. Về phía người dân, tập quán chịu đựng số phận từ ngàn đời tạo nên triết lý sống cam chịu, trông đợi sự giúp đỡ của Nhà nước. Sức lực yếu ớt của Nhà nước và tinh thần tê liệt của nông dân làm cho công cuộc phát triển nông thôn trở thành mong ước vô vọng ở nhiều nước, kể cả những nơi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra khá thành công.
Hàn Quốc năm 1953, cuộc nội chiến ác liệt kết thúc để lại một đất nước bị tàn phá hoàn toàn, rừng bị chặt trắng. Một triệu người bị thương vong, kết cấu hạ tầng bị phá hoại, ước tính trị giá gần 3 tỉ USD theo tỉ giá năm 1950. Do tiết kiệm trong nước quá thấp, quỹ tái thiết chủ yếu của Hàn Quốc, trong thập kỷ 50 phải dựa vào trợ giúp của Mỹ, trung bình 200 triệu USD/năm để nhập khẩu mọi nhu yếu phẩm như lúa mì, phân bón, bông, nhiên liệu và vật tư sản xuất hàng tiêu dùng. Hàn Quốc đến tận những năm đầu thập kỷ 60 vẫn là một nước chậm phát triển. Từ năm 1953 đến 1962, mức tăng GDP hàng năm chỉ khoảng 3,7% nhưng tỉ lệ tăng dân số tới 3%. Thu nhập bình quân đầu người năm 53 đạt khoảng 67 USD, đến năm 62 là 87 USD.
Sau kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1962-1966) và kế hoạch năm năm lần thứ hai (1966-1971), nhờ có các quyết sách chiến lược đúng đắn như phát triển tài nguyên con người, đầu tư nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại, hướng vào xuất khẩu… công nghiệp Hàn Quốc đã tăng trưởng nhanh, đạt mức 9,3% so với tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của công nghiệp thế giới chỉ là 5%. Trong cùng giai đoạn này, hầu hết các nước XHCN và nhiều nước đang phát triển khác cũng tập trung phát triển công nghiệp bằng những chính sách và chiến lược khác và hầu hết không thành công như vậy.
Nóng lòng công nghiệp hóa, trong 10 năm, Hàn Quốc dốc toàn lực đầu tư phát triển các ngành công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp là 10-10,5%, trong khi nông nghiệp tăng trưởng giảm từ 5,3% xuống 2,5%. Thành thị phát triển đối nghịch với nông thôn lạc hậu. Nông dân di cư ra làm quá tải thành thị. Cuối thập kỷ 60, sự tăng trưởng bất cân đối trong nền kinh tế lên tới đỉnh điểm, đe dọa sự ổn định của quá trình công nghiệp hóa. Trong khi dân cư đô thị cố gắng cạnh tranh làm giàu, quyết tâm đổi đời thì đại bộ phận nông dân vẫn sống nghèo nàn trong bi quan và ỷ lại, lối thoát duy nhất là rời bỏ quê hương, chạy về đô thị.
Tham quan mô hình nhà ở tại các vùng nông thôn Hàn Quốc
Trước nguy cơ "kinh tế tách rời, khác biệt xã hội", bước vào kế hoạch năm năm lần thứ ba (1971-1976), Hàn Quốc chuyển sang “tái cơ cấu kinh tế” để lập lại “cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp”. Ba mục tiêu hàng đầu đặt ra là xây dựng công nghiệp nặng, tăng xuất khẩu và phát triển nông nghiệp. Tăng trưởng nông nghiệp là một quyết tâm chính trị rất ghê gớm. Tuy lúc đó nông nghiệp là ngành kinh tế chính của Hàn Quốc và hơn hai phần ba dân số sống ở nông thôn, nhưng điều kiện tự nhiên Hàn Quốc rất bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Địa hình đồi núi hiểm trở, chỉ có khoảng 22% tổng diện tích đất (khoảng hơn 2 triệu hécta) có thể canh tác. Mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3, tuyết rơi trung bình khoảng 1.300 mm/năm.
Bất chấp những khó khăn trên, trong kế hoạch năm năm lần thứ 3, Chính phủ lên kế hoạch đầu tư khoảng 2 tỷ USD cho phát triển nông thôn. Đây là sự nỗ lực ghê gớm vì Hàn Quốc thiếu vốn nghiêm trọng. Mối đe dọa thường xuyên về quốc phòng khiến ít quốc gia muốn đầu tư vào. Trong thập kỷ 60, FDI chỉ chiếm vẻn vẹn có 6,4% trong tổng số vốn từ nguồn nước ngoài đưa vào Hàn Quốc, 94% vốn đầu tư là các khoản nhà nước đi vay và tư nhân vay theo lãi suất thương mại. Từ những năm 60 đến 70, Hàn Quốc tiếp nhận 2 tỷ USD tiền vốn vay nước ngoài một năm, trong đó chủ yếu là vốn vay thương mại giành cho khu vực tư nhân, 28% là vốn vay nhà nước do Chính phủ vay để phát triển hạ tầng cơ sở.
Tổng thống Pắc Chung Hy – cha đẻ của phong trào Làng mới không nghĩ rằng tiền bạc ít ỏi của Chính phủ đổ vào cơ sở hạ tầng là giải pháp cho vấn đề nông thôn. Ông cho rằng giải pháp để phát triển nông thôn là tạo ra và huy động cho được nội lực của nông dân, bằng cách tổ chức các nhóm phát triển cộng đồng tại mọi làng xã. Lượng vật chất nhỏ và chính sách tốt của Nhà nước chỉ nhằm khơi dậy và kích thích sức mạnh tinh thần, tạo nên nội lực tiềm tàng to lớn của nông dân. Phong trào Làng mới nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng nhất tạo động lực cho phát triển nông thôn là “phát động tinh thần làm chủ, ý chí sáng tạo, tự tin và đoàn kết cộng đồng của nông dân”.
Giống như Việt Nam hôm nay, lúc đó ở Hàn Quốc giá lao động nông nghiệp và đất đai nông thôn khá rẻ. Chính sách sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu và phát triển công nghiệp tạo ra nhiều vật tư xây dựng cơ bản như xi măng sắt thép thừa tồn kho. Tổng thống Hàn Quốc quyết định huy động những yếu tố có sẵn ấy để tạo ra công ăn việc làm cho người lao động nông thôn, vừa kích cầu tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp vừa xây dựng được cơ sở hạ tầng ở nông thôn trong thời gian ngắn, giá thành hạ, tạo ra thế và lực mới cho phát triển nông nghiệp nhưng chủ yếu là tạo ra “cú hích đột phá” phát động tư tưởng nông dân.
Phong trào áp dụng chính sách: Nhà nước bỏ ra 1 (chủ yếu là vật tư, xi măng, sắt thép...) thì nhân dân đóng góp 5-10 (công sức, đất đai và tiền của). Sự giúp đỡ của nhà nước trong năm đầu chiếm tỷ lệ cao, dần dần các năm sau, giảm dần trong khi qui mô địa phương và nhân dân tham gia tăng dần. Nhà nước chuyển toàn bộ vật tư cho nhân dân quản lý. Nhân dân thông qua ủy ban phát triển nông thôn do dân làng dân chủ bầu ra tự quyết định loại công trình nào cần ưu tiên xây dựng và chịu trách nhiệm toàn bộ về thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình.
Tổng số hỗ trợ cho mỗi làng từ năm 1971 đến 1978 là 84 tấn xi măng và 2,6 tấn sắt thép. Tổng giá trị xi măng và sắt thép tương đương với 2.000 USD/làng theo tỷ giá năm 1974. Trợ giúp vật chất khiêm tốn này được coi như chất xúc tác thúc đẩy phong trào đi lên.
Muốn gây ảnh hưởng thay đổi tâm lý nông dân, Chương trình bắt đầu bằng các công trình xây dựng cho từng hộ nông dân như ngói hóa nhà ở, lắp đặt điện thoại, nâng cấp hàng rào quanh nhà... làng nào làm tốt bước này mới được chuyển sang xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống của cộng đồng như đường làng, đường nhánh nông thôn, cầu cống, kè, hệ thống cấp thoát nước, điện, hội trường, nhà tắm công cộng, sân chơi trẻ em, trồng cây và hoa...
Bước đầu, 16.000 làng được chọn để tiến hành chương trình, không phân biệt đặc điểm, làng giàu, làng nghèo. Xi măng sản xuất ứ thừa của các nhà máy được Chính phủ mua rẻ, phân phối hỗ trợ mỗi làng 300 bao làm chương trình. Số vật tư ít ỏi đáp ứng đúng vào mong muốn tự vươn lên làm chủ của nông dân đã làm đổi thay bộ mặt nông thôn nhanh chóng. Sau 8 năm, năm 1978, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cơ bản hoàn thành. Từ 80% nhà lá, toàn bộ nhà nông thôn được ngói hóa, từ 27% tới 98% gia đình có điện, 70.000 cầu, 24.000 hồ chứa, 42.220 km đường làng được nâng cấp và xây dựng. Quan trọng nhất là sau có 5 năm người nông dân đã trực tiếp cảm nhận sức mạnh của bản thân khi tự đứng lên xây dựng cuộc sống.
Bước thứ hai, những làng hoàn thành tốt các dự án kết cấu hạ tầng sẽ được triển khai các dự án nâng cao thu nhập như khuyến nông, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, xây dựng vùng chuyên canh, xây dựng hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trồng rừng, kinh doanh... Hỗ trợ của nhà nước chuyển sang bằng tiền dưới hai dạng cho vay và cho không. Khoảng 750 ngàn nông hộ ở 137 vùng đã được hỗ trợ và khuyến khích sản xuất, chế biến, kinh doanh 21 mặt hàng bao gồm: gia cầm, thịt bò, sữa bò, dâu tằm, hoa màu, cây ăn quả, cá, nấm...
Thực hiện phương châm làm từng bước, từ thấp đến cao, từ thí điểm trên diện hẹp đưa ra toàn quốc, từ xây dựng lan sang sản xuất, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp để nông dân có đủ thời gian chuyển đổi cách nghĩ, cách làm, có đủ thời gian để chọn lựa, đào tạo cán bộ cơ sở, nông hộ có thời gian để tự tích lũy tái sản xuất mở rộng, chương trình tiến hành trong nhiều năm theo các bước từ thấp đến cao. Đến cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, hầu hết các làng ở nông thôn Hàn Quốc đều tham gia vào các dự án nâng cao thu nhập cho nông dân. Trong vòng 6 năm, thu nhập bình quân các nông trại tăng gần 3 lần, từ 1.025 USD năm 1972 lên 2.961 USD năm 1977, quan trọng nhất là thu nhập gia đình nông thôn tương đương thu nhập bình quân của các hộ ở thành phố.
Mục tiêu quan trọng nhất của chương trình là biến đổi nông thôn đã thành công. Trong những năm 70, Chương trình Saemaul một mặt giữ chân và tạo thu nhập cho đông đảo lao động đi ra từ sản xuất nông nghiệp, mặt khác đã giúp nâng cao tay nghề và khả năng quản lý, ý thức công nghiệp cho lực lượng lao động nông thôn. Khi ra thành phố kiếm việc làm họ dễ dàng bắt kịp kỹ năng và tác phong hiện đại. Do có đủ phẩm chất và khả năng đáp ứng với nhu cầu công việc cao hơn ở lĩnh vực công nghiệp, trong vòng 20 năm sau, tổng số người làm nghề nông giảm 50%.
Chính sách đúng trong phong trào Saemaul thập kỷ 1970 là một mũi tên trúng nhiều đích: cứu cho sản xuất công nghiệp khỏi tình trạng dư thừa sản phẩm, giúp hệ thống ngân hàng quay vòng vốn nhanh, đổi thay bộ mặt nông thôn và sản xuất nông nghiệp tăng trưởng. Quan trọng nhất là món quà của Chính phủ trở thành chất xúc tác vật chất làm thay đổi tinh thần và tâm lý nông dân. Đó là món quà quí báu đem lại tinh thần làm chủ, sáng tạo, đoàn kết cho nông dân. Từ đó, họ tự đứng lên làm chủ cuộc đời mình và làm chủ đất nước.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM, Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025;