Tiến sĩ Phạm S, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng trao đổi: Cách đây mười năm, tỉnh đã khởi động chương trình nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC), và tính đến nay, Lâm Đồng đã có gần 35 nghìn ha đất sản xuất, thâm canh theo hướng NNCNC.
Để phát triển NNCNC, Lâm Đồng xác định phải ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) trong việc chọn tạo, nhân giống cây trồng, vật nuôi mới. Một trong các phương pháp được ứng dụng rộng rãi là nhân giống invitro thực vật đạt hiệu quả cao, nhờ vậy hiện Lâm Đồng có gần 60 cơ sở (riêng TP Đà Lạt có 50 cơ sở) ứng dụng nuôi cấy mô thực vật.
Trong sản xuất rau, tỉnh đã có hơn 170 loại, 600 loại hoa (sử dụng giống mới trong sản xuất rau và hoa đạt 95%); ngoài ra còn có bốn giống chè chất lượng cao, sáu dòng cà-phê vối cao sản…
Phát triển NNCNC đã giúp người dân tỉnh Lâm Đồng nâng cao doanh thu trên một đơn vị diện tích, và giá trị gia tăng của sản phẩm. Thống kê chưa đầy đủ cho thấy, toàn tỉnh hiện có hơn 30 nghìn ha có doanh thu 100 đến 250 triệu đồng/ha/năm; trong đó có khoảng 15 nghìn 250 ha cho doanh thu từ 250 đến 500 triệu đồng/ha/năm; khoảng 10 nghìn ha cho doanh thu từ hơn 500 triệu đến một tỷ đồng/năm.
Tiến sĩ Phạm S cũng cho biết: Lâm Đồng đang tập trung các nguồn lực triển khai, thực hiện dự án khu công nghệ sinh học và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Đà Lạt. Dự kiến tỉnh sẽ xây dựng ở đây 10 Trung tâm chức năng, nguồn kinh phí đầu tư khoảng 2.000 tỷ đồng (trong đó nguồn vốn ngân sách là 400 tỷ đồng) còn lại là nguồn xã hội hóa.
Khi hình thành, khu CNSH và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ thu hút đội ngũ cán bộ khoa học ở các viện nghiên cứu, trường đại học đến làm việc theo hướng gắn hoạt động nghiên cứu với triển khai; kết nối công tác đào tạo và hỗ trợ chuyển giao công nghệ vào sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
“Xây dựng một chiến lược phát triển KH và CN cho nông nghiệp và nông thôn để từ nay đến năm 2020, các thành tựu KH và CN sẽ đóng góp từ 40 – 50% GDP nông nghiệp. Trong đó sản phẩm NNCNC chiếm 30 – 35% giá trị sản xuất của các sản phẩm chủ yếu”. (Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) |
Chương trình công nghệ cao trong nông nghiệp, như Bộ Khoa học và Công nghệ (KH và CN) cho biết đã triển khai 100 đề tài và 20 dự án sản xuất thử nghiệm; tập trung vào các lĩnh vực như cây nông - lâm nghiệp, chăn nuôi - thú y, vi sinh - endim, CNSH trong thủy sản.
Ứng dụng các thành tựu của CNSH, những năm qua, chúng ta đã chọn tạo và phát triển được các giống cây trồng, vật nuôi, chủng vi sinh vật, các chế phẩm sinh học mới phục vụ trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, và nuôi trồng thủy sản có năng suất và chất lượng cao.
Chỉ tính từ năm 2008 đến năm 2013, đã có 396 giống cây trồng được công nhận, đồng thời xây dựng được hàng trăm quy trình công nghệ áp dụng vào thực tế sản xuất, kinh doanh. Theo đó, cả nước đã có gần 30 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hình thành và phát triển tại 12 tỉnh, thành phố. Bước đầu xây dựng được các mô hình NNCNC trong sản xuất rau an toàn, trồng hoa chất lượng cao ở Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh; chăn nuôi bò sữa và sản xuất, chế biến các sản phẩm từ sữa ở Hà Nội, Sơn La, Nghệ An; mô hình cánh đồng mẫu lớn trồng lúa gạo xuất khẩu cũng như nuôi cá tra sạch tại An Giang và một số địa phương đồng bằng sông Cửu Long… Đi liền là các quy trình sản xuất đồng bộ đã giúp nâng cao năng suất, và chất lượng sản phẩm, góp phần đưa các mặt hàng nông sản ra nước ngoài với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 28 tỷ USD năm 2013.
Tuy nhiên, chương trình phát triển NNCNC mà nhiệm vụ chính là ứng dụng CNSH, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến, cơ giới hóa và tự động hóa trong thời gian qua chưa tạo nên các “đột phá” nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm; chưa tạo cơ sở vững chắc cho vấn đề chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững.
Các khu NNCNC còn không ít hạn chế, bất cập do đầu tư thiếu đồng bộ, tập trung; cơ chế hỗ trợ và thu hút doanh nghiệp chưa hấp dẫn. Việc lựa chọn mô hình sản xuất, lựa chọn công nghệ để sản xuất chưa phù hợp, mặt khác chi phí đầu tư, hoạt động ở một số khu NNCNC còn khá lớn (như ở Hà Nội, Hải Phòng) dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp…
“Sau 20 năm xuất khẩu gạo, với hơn 76 triệu tấn, ta thu về khoảng 22 tỷ USD, mộtt kết quả rất ấn tượng. Nhưng các nhà xuất khẩu gạo của ta vẫn chỉ là người trung gian thu gom lúa của nông dân để xuất ra nước ngoài nên tính cạnh tranh thấp mà không hề có doanh nhân nào trở thành nhà kinh doanh quốc tế trong lĩnh vực lúa gạo”. (TS Võ Hùng Dũng – Giám đốc VCCI Cần Thơ) |
20 năm trở lại đây, nông nghiệp Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu nổi bật, đưa nước ta trở thành một trong các quốc gia hàng đầu về xuất khẩu hàng nông sản, trong đó nhiều ngành hàng chiếm vị trí cao trên thế giới như: gạo, cà-phê, hạt điều…
Song nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn của ảnh hưởng biến đổi khí hậu, giá thành sản xuất cao, chất lượng nông sản còn thấp (bán thô là chủ yếu) làm cho năng lực cạnh tranh hạn chế. Mặt khác, công nghiệp chế biến lạc hậu, thương hiệu sản phẩm mờ nhạt, dĩ nhiên việc gia tăng giá trị các mặt hàng nông sản trong chuỗi giá trị còn rất hạn chế.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đó là Nghị quyết số 26/NQ-TƯ (khóa X) về Tam nông, Nghị quyết số 20/ NQ-TƯ (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; Quyết định 176/QĐ-TTg (ngày 29-1-2010) của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020… Để xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao không có cách nào khác là cần tiếp tục phát triển NNCNC.
Tại Hội thảo “Giải pháp phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp Báo Nhân dân và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức trung tuần tháng 5 vừa qua, nhiều ý kiến của các nhà khoa học và nhà quản lý đều cho rằng, trong hàng loạt giải pháp, chúng ta cần tăng cường nghiên cứu, phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp, mà trọng tâm là tạo công nghệ cao mới phục vụ trồng trọt, chăn nuôi và công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Quan tâm hơn công tác đào tạo nghề cho nông dân, nhằm nâng cao trình độ lao động nông nghiệp lâu nay ở nhiều vùng nông thôn còn rất thấp. Phấn đấu đến năm 2020, tạo ra và đưa vào sản xuất năm, sáu giống cây trồng chuyển gen, ba, bốn giống thủy sản bằng kỹ thuật di truyền và CNSH; góp phần đưa trình độ công nghệ nông nghiệp nước ta đạt trung bình khá so các nước khu vực châu Á.
Đẩy mạnh phát triển toàn diện NNCNC mà “chủ lực quân” là hệ thống các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các vùng sản xuất NNCNC; đồng thời có chính sách cho vay sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao một cách phù hợp. Kết hợp việc lồng ghép giữa chương trình KH và CN phục vụ xây dựng nông thôn mới với các chương trình, dự án liên quan khác của các bộ, ngành và địa phương. Nhằm mục tiêu đến năm 2020, mỗi tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm xây dựng được năm đến mười doanh nghiệp, đồng thời có năm đến bảy vùng sản xuất NNCNC; từ đó đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 30 đến 35% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước…
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM, Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025;