Theo báo cáo “Việt Nam nhập khẩu gỗ nhiệt đới và ý nghĩa cho việc thực hiện Nghị định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp VNTLAS”, bình quân mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 2-2,5 triệu m3 gỗ tròn và xẻ quy tròn là gỗ nhiệt đới. Lượng nhập từ nguồn này chiếm khoảng 40-50% trong tổng lượng gỗ nhập vào Việt Nam từ tất cả các nguồn. Gỗ nhiệt đới nhập khẩu được đưa vào chế biến và chủ yếu là tiêu dùng nội địa. Các sản phẩm phổ biến nhất bao gồm bàn, ghế, giường, tủ, đồ thờ cúng, công trình xây dựng.
Việt Nam nhập khẩu gỗ nhiệt đới từ các nước châu Phi, một số quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ, Lào, Campuchia và Papua New Guinea (PNG). Năm 2020, lượng gỗ nhiệt đới nhập khẩu vào Việt Nam từ các quốc gia này đạt 2,7 triệu m3 quy tròn, chiếm 41% trong tổng lượng gỗ tròn và xẻ nhập khẩu.
Điều đáng chú ý là trừ Nam Phi, toàn bộ các quốc gia thuộc khu vực châu Phi cung cấp gỗ nguyên liệu cho Việt Nam không nằm trong danh sách vùng địa lý tích cực được quy định trong Quyết định 4832 của Bộ NN-PTNT. Lào, Campuchia, PNG và toàn bộ các quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ đang cung cấp gỗ nhiệt đới cho Việt Nam, cũng không nằm trong danh sách này. Điều này có nghĩa rằng đại đa số nguồn cung gỗ nhiệt đới cho Việt Nam đều được coi là gỗ rủi ro.
Theo tinh thần của Nghị định VNTLAS (có hiệu lực từ 1/10/2020), tất cả các nhà nhập khẩu nhập khẩu gỗ rủi ro phải thực hiện việc bổ sung tài liệu minh chứng cho tính hợp pháp của gỗ nhập khẩu và phải đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thực hiện Nghị định này đang diễn ra không như kỳ vọng. Thông tin từ một số công ty nhập khẩu gỗ châu Phi cho thấy quy trình nhập khẩu vẫn giống như trước khi Nghị định VNTLAS được ban hành.
Ngành gỗ Việt Nam chủ yếu vẫn đang hướng tới thị trường xuất khẩu. Do đó, việc giảm rủi ro về tính hợp pháp của gỗ nhiệt đới nhập khẩu có vai trò sống còn đối với ngành gỗ, nhất là khi Chính phủ Mỹ đang có các cáo buộc Việt Nam nhập khẩu gỗ bất hợp pháp từ một số quốc gia khu vực nhiệt đới. Các cáo buộc này đưa ra trong bối cảnh Việt Nam đang nhập khẩu một lượng lớn gỗ tự nhiên từ nhiều quốc gia, trong đó có các nước châu Phi và Campuchia. Chính phủ Mỹ vẫn đang tiến hành điều tra ngành gỗ Việt Nam dựa trên cáo buộc này.
Chính vì vậy, theo các tác giả của báo cáo nói trên, ngành gỗ Việt Nam cần xác định loại bỏ các rủi ro trong khâu nhập khẩu gỗ nguyên liệu, nhất là với gỗ nhiệt đới là ưu tiên số 1 của ngành. Vấn đề này được giải quyết càng nhanh càng tốt.
Các tác giả báo cáo cho rằng Chính phủ có vai trò rất quan trọng trong việc loại bỏ rủi ro với gỗ nhập khẩu. Trước hết, để tăng cường tính xác thực của hồ sơ giấy tờ trong bộ hồ sơ xuất/nhập khẩu, Chính phủ Việt Nam cần thiết lập kết nối chính thức với Chính phủ của các quốc gia cung gỗ nguyên liệu rủi ro cho Việt Nam. Kết nối này giúp cho các cơ quan chức năng của Việt Nam nắm rõ được quy trình trong chuỗi cung xuất khẩu, các yêu cầu pháp lý có liên quan tới các hoạt động của chuỗi và tính xác thực của các giấy phép, tài liệu nằm trong bộ hồ sơ xuất khẩu.
Kết nối này cũng có thể giúp cho Chính phủ Việt Nam tiếp cận đối với nguồn thông tin về các doanh nghiệp được phép khai thác, chế biến và được phép xuất khẩu tại quốc gia xuất khẩu. Thông tin này cho phép tăng cường kiểm tra về tính xác thực của các hồ sơ, tài liệu trong bộ chứng từ nhập khẩu. Trong ngắn hạn, Chính phủ Việt Nam nên ưu tiên trong việc thực hiện kết nối với Chính phủ Cameroon, bởi đây là quốc gia cung gỗ nguyên liệu lớn nhất cho Việt Nam. Bên cạnh đó, ưu tiên cũng nên được thực hiện với Chỉnh phủ Campuchia, bởi nguồn cung từ Campuchia luôn tiềm ẩn các rủi ro rất lớn.
Các hiệp hội gỗ cũng có vai trò quan trọng, đồng hành cùng Chính phủ trong việc thực hiện các kết nối, nhằm giảm rủi ro trong khâu nhập khẩu gỗ nguyên liệu. Gần đây, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) đã gửi thư chính thức tới Bộ Lâm nghiệp và Động vật hoang dã của Cameroon, đề nghị Bộ cung cấp thông tin cụ thể về bằng chứng hợp pháp đối với gỗ xuất khẩu từ nguồn này. Đây là hoạt động quan trọng, thể hiện mong muốn của ngành gỗ trong việc giảm thiểu rủi ro trong khâu nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
Hầu hết gỗ rủi ro nhập khẩu vào Việt Nam là để tiêu dùng nội địa. Do đó, việc thay đổi nhận thức và hành vi của người tiêu dùng Việt Nam trong việc sử dụng gỗ tự nhiên sang sử dụng gỗ rừng trồng có nguồn gốc trong nước và gỗ nhập khẩu từ các nguồn ít rủi ro có vai trò rất quan trọng.
Trong việc thay đổi nhận thức và hành vi tiêu dùng nói trên, Nhà nước cần phải đi tiên phong trong việc thay đổi thói quen sử dụng gỗ tự nhiên. Theo đó, Chính phủ cần ban hành chính sách mua sắm công về các sản phẩm gỗ. Chính sách cần phát triển theo hướng loại bỏ hoàn toàn gỗ tự nhiên nhập khẩu từ các nguồn rủi ro, ưu tiên sử dụng các loài gỗ rừng trồng trong nước trong tất cả các dự án sử dụng ngân sách và cả đối với các cơ quan nhà nước không sử dụng ngân sách. Thực hiện chính sách này sẽ giúp cho Chính phủ có vai trò hình thành và dẫn dắt thị trường.
"Ngành gỗ Việt Nam sẽ chỉ có thể phát triển bền vững chừng nào các rủi ro trong khâu nhập khẩu gỗ nguyên liệu, đặc biệt là đối với nguồn gỗ tự nhiên được giải quyết triệt để".
Nguồn: Báo cáo Việt Nam nhập khẩu gỗ nhiệt đới và ý nghĩa cho việc thực hiện nghị định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp VNTLAS.
Thanh Sơn/Nongnghiep.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình OCOP trong thời gian tới
Hướng dẫn thành lập BCĐ cấp huyện và bộ phận giúp việc BCĐ cấp huyện, BCĐ đạo cấp xã, BQL cấp xã, Ban Phát triển thôn, tổ dân phố
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của các Bộ tiêu chí ban hành kèm theo Quyết định số 36 và Quyết định số 37 ngày 09/12/2022 của UBND tỉnh
Giao hướng dẫn thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG cấp huyện, cấp xã
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM, Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025;